Bài tập tình huống cá nhân Luật Tố tụng Dân sự có đáp án.
Bài tập cá nhân/tuần 2- Số 16
Ông A chết ngày 6/7/1993. Vợ ông A là bà B chết ngày 10/10/1994. Ông bà A, B có các con là M, N, P và để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 200m2. Hiện tại, toàn bộ tài sản trên của ông bà A, B là do M quản lý, sử dụng. Vì được biết anh M đang rao bán nhà đất trên cho X với giá 1.5 tỷ đồng nên ngày 12/3/2007 N, P đã khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản là nhà đất mà ông bà A, B để lại. Hỏi:
1. Hãy xác định thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc trên
2. N, P đã nộp đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với căn nhà trên. Hãy xác định biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thể áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp đó?
Thuật ngữ viết tắt:
Bộ luật tố tụng dân sự :BLTTDS
Bộ luật dân sự :BLDS
1. Thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc trên
Vụ việc trên nếu thuộc tranh chấp về quyền thừa kế tài sản thì thời hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế, và trong tình huống này được xác định là đã hết thời hiêu khởi kiện. Tuy nhiên, nếu đây được xác định là tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản chung thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn vì thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Căn cứ vào Điểm a Khỏan 3 Điều 159 BLTTDS và Tiểu mục 2.1 mục 2 phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định chung trong phần thứ nhất “ Những quy định chung” của BLTTDS thì thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về thừa kế tài sản được xác định theo văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện, và cụ thể ở đây là theo quy định của BLDS năm 2005 và các văn bản khác có liên quan.
Điều 645 BLDS năm 2005 có quy định: “ Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế” . Trong đó thời điểm mở thừa kế ở đây là thời điểm người có tài sản chết (Điều 633 BLDS năm 2005). Như vậy, tính đến thời điểm ngày 12/3/2007 thì đã quá thời hiệu 10 năm kể từ thời điểm ông A hoặc bà B chết.
Về nguyên tắc, khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì các bên không còn quyền khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên trên thực tế giải quyết các tranh chấp về thừa kế tài sản thì pháp luật vẫn cho phép áp dụng trường hợp không xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế quy định tại Tiểu mục 2.4 mục 1 phần I Nghị quyết số 02/2004/NĐ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó tại Điểm a có quy định: “…khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết…”. Như vậy, điểu kiện để không áp dụng thời hiệu về chia thừa kế là giữa các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia.
Trong tình huống bài ra, M, N, P là những người thuộc cùng hàng thừa kế thứ nhất nên không có tranh chấp về hàng thừa kế. Trong trường hợp này, nếu M xác nhận tài sản mà ông bà A, B để lại là tài sản chưa chia thì sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế và N, P vẫn có thể khởi kiện ra tòa về chia tài sản chung.
2. Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà tòa án có thể áp dụng và thủ tục áp dụng biện pháp đó.
Căn cứ vào Điều 102 BLTTDS thì tòa án có thể áp dụng biện pháp “cấm dịch chuyển quyền tài sản” đối với căn nhà.
Điều 109 BLTTDS năm 2004 có quy định cụ thể về biện pháp “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp” được áp dụng trong trường hợp có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác. Do đó trong trường hợp M có hành vi rao bán căn nhà đang tranh chấp cho X thì N, P có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp “cấm dịch chuyển quyền tài sản” đối với căn nhà.
*Thủ tục áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 117, Điều 120 BLTTDS. Theo đó gồm các bước sau:
- Người yêu cầu (N,P) làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong đơn yêu cầu phải nêu rõ ngày, tháng, năm viết đơn; Tên, địa chỉ của người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tên, địa chỉ của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Bên cạnh đó, cùng với đơn, người yêu cầu cần cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này.
- Thông thường, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ xem xét, giải quyết đơn của người yêu cầu trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn nếu người đưa ra yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm.
+ Đối với biện pháp khẩn cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang có tranh chấp thì theo luật định người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này phải thực hiện biện pháp bảo đảm, nghĩa là đương sự phải xuất trình chứng cứ chứng minh đã nộp một khoản tài sản bảo đảm (do thẩm phán ấn định) tại ngân hàng khi đó thẩm phán mới ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khoản tài sản này (tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá) phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện theo hướng dẫn tại Mục 8 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS.
Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.Trường hợp Hội đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên toà thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm.
Đối với những tình thế khẩn cấp cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì chánh án phải chỉ định ngay một thẩm phán giải quyết và thời hạn để ra quyết định là 48 giờ kể từ khi nhận đơn yêu cầu và các chứng cứ kèm theo. Nếu không chấp nhận yêu cầu thì thẩm phán đó cũng phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
+ Đối với biện pháp khẩn cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang có tranh chấp thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại Học Luật Hà Nội, nxb Tư pháp, năm 2005.
2. Bộ luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2008
3. Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS
4. Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định chung trong phần thứ nhất “ Những quy định chung” của BLTTDS
5. Nghị quyết số 02/2004/NĐ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
6. Đỗ Văn Chỉnh, Bàn về giải quyết vướng mắc sau khi kết thúc thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Tạp chí TAND số 13(Tháng 7/2009)
7. http://www.ecolaw.vn/vi/node/278
No comments:
Post a Comment