14/06/2014
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Bài tập học kỳ Luật Tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên nó cũng chịu sự chi phối của các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật như pháp chế xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật…Ngoài ra với tư cách là một ngành luật luật độc lập, luật tố tụng hình sự có những nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật khi vận dụng vào các quan hệ xã tố tụng hình sự cũng có những biểu hiện đặc thù riêng.


Bài viết dưới đây chúng em xin đi trình bày đề tài: “Nội dung cơ bản của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này.”


NỘI DUNG

1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

1.1 Căn cứ pháp lí của nguyên tắc

Điểu 130 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”

Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”

1.2 Nội dung của nguyên tắc

Nội dung của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được hiểu theo hai khía cạnh:

- Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập.

- Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật

1.2.1 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập 

Thẩm phán và Hội thẩm là các chủ thể tham gia xét xử vụ án, do đó Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập là độc lập trong mối quan hệ với các chủ thể khác cùng tham gia xét xử vụ án.

Thứ nhất là xét xử độc lập với các chủ thể khác của Tòa án. Mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được không đơn thuần là quan hệ về tổ chức hành chính, càng không đơn thuần là quan hệ tố tụng. Như Chánh án ngoài việc có tiếng nói trong quá trình lựa chọn cán bộ, còn tham gia vào hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; thông qua công tác tổ chức xét xử như họp bản án trước khi xét xử, phân công Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án, Chánh án có tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm… Mặc dù pháp luật đã quy định khi hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp phúc thẩm không được quy định những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc bác bỏ cũng như không quy định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng nhưng việc Tòa án cấp trên hủy án của Tòa cấp dưới cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của mình trong việc điều tra chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử công khai, khách quan.

Độc lập xét xử với Chánh án và Tòa án cấp trên không có nghĩa là không lẵng nghe, không học hỏi, chỉ đưa ra quyết định dựa trên những suy nghĩ chủ quan của mình, việc tranh thủ ý kiến của tập thể Thẩm phán, của cấp trên để áp dụng thống nhất pháp luật, củng cố niềm tin nội tâm sẽ hạn chế được những sai sót có thể xảy ra do lỗi chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm. 

Thứ hai là xét xử độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng. Nhà nước ta luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo cơ quan Tư pháp, trong đó có Tòa án thông qua cấp ủy. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, song trên thực tế chế độ Đảng lãnh đạo Nhà nước trong đó có các cơ quan, đơn vị, vị trí của cấp ủy Đảng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán khi có sự tác động từ cấp ủy Đảng. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để bảo đảm sự độc lập xét xử. Thẩm phán và Hội thẩm cần phân định rõ sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và sự can thiệp mang tính cá nhân của một số cán bộ lãnh đạo Đảng. Bản lĩnh nghề nhiệp của Thẩm phán và Hội thẩm là một yếu tố cần thiết để đảm bảo cho họ độc lập xét xử trước sự can thiệp không đúng pháp luật của một số cá nhân, tổ chức.

Thứ ba là xét xử độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đây là việc Thẩm phán và Hội thẩm trên cơ sở đánh giá chính xác các thông tin, kiểm tra lại tính xác thực, đúng đắn của quyết định truy tố, từ đó đưa ra quan điểm chứng minh tội phạm của Hội đồng xét xử, các tình tiết, thông tin thu thập được phải phù hợp với hiện thực khách quan. Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nghĩa là “Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét các chững cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc các chứng cứ mà Viện kiểm sát đã đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, đối chiếu với những quy định của pháp luật để xử lí vụ án, và có quyền kết luận khác với ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.

Thứ tư là xét xử độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng, với dư luận và với báo chí, nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào yêu cầu của những người nói trên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không ai được phép tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm vì phán quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những nhóm mâu thuẫn về lợi ích nhất định. Sau phán quyết lại có rất nhiều những bình luận từ dư luận quần chúng nhân dân, từ cơ quan báo chí… Những vấn đề này đều tác động mạnh mẽ đến tâm lí của Thẩm phán và Hôi thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Do vậy, Thẩm phán và Hội thẩm cần xét xử độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng, với dư luận và với cơ quan báo chí.

Thứ năm là xét xử độc lập với chính các thành viên của Hội đồng xét xử. Cơ sở pháp lí của việc độc lập xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm được ghi nhận thành những nguyên tắc của luật tố tụng, đó là: Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, của tòa án quan sự có Hội thẩm quân nhân tham gia; khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Để đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án…”. Những quy định trên đã loại trừ việc Thẩm phán lạm quyền, tác động đến hoạt động xét xử của Hội thẩm.

1.2.2 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật

* Sự tuân theo pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự với những nguồn luật cơ bản của nó chính là cơ sở pháp lí, hành lang pháp lí để các nhà áp dụng pháp luật căn cứ vào đó thực hiện các hoạt động trong phạm vi thẩm quyền, nhiệm vụ của mình. Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động xét xử của mình, trên hết và trước hết phải nắm được các quy định của pháp luật và tuân thủ những quy định đó, cũng như áp dụng những quy định đó của pháp luật vào thực tiễn xét xử một cách đúng đắn.

* Sự tuân theo các văn bản pháp luật khác có liên quan.

- Pháp luật dân sự: Khi giải quyết vụ án hình sự, cùng với việc quyết định về tội danh, mức hình phạt, xử lí vật chứng, Hội đồng xét xử còn phải giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, chủ yếu là giải quyết việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Yêu cầu giải quyết những vấn đề trên đòi hỏi Hội đồng xét xử phải nắm rõ những quy định của các văn bản pháp luật về căn cứ bồi thường, mức bồi thường, nguyên tắc bồi thường. Các quyết định này phải dựa vào Luật dân sự và các văn bản hướng dẫn trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, không được phép quyết định cảm tính, chủ quan, dựa vào tình cảm cá nhân để ấn định mức bồi thường.

- Pháp luật chuyên ngành khác: Hoạt động định tội danh là một hoạt động khác phức tạp đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có kiến thức tổng hợp về pháp luật chứ không đơn thuần là chỉ hiểu biết các quy định của Luật hình sự. Muốn định tội danh đều phải nắm rõ các quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành.

Ngoài ra, Thẩm phán và Hội thẩm cũng phải nắm chắc các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, các thông tư liên ngành để giải quyết chính xác các trường hợp cụ thể.

1.2.3 Mối liên hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm 

Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập là một phần nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau, độc lập với các yếu tố khác. Độc lập trong xét xử không những được quy định thành nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự, được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án mà nó còn được thể hiện ở những điều luật quan trọng khác của Bộ luật tố tụng hình sự như các điều luật về nghị án, về giới hạn xét xử, về giám đốc thẩm. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chính là biểu hiện của việc tuân theo pháp luật.

Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Tuân theo nghĩa là nghe theo và làm theo. Xét khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp luật. Khi nắm chắc kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình.

Độc lập trong sự thống nhất với việc chỉ tuân theo pháp luật. Độc lập không có nghĩa là thoát ly khỏi những quy định của pháp luật và tuân theo pháp luật mà không có sự độc lập thì chỉ là sự tuân theo một cách hình thức không có hiệu quả. Độc lập mà không tuân theo pháp luật thì độc lập trong xét xử sẽ không còn ý nghĩa vì xét xử tùy tiện, độc đoán, không tránh khỏi sự chủ quan, cảm tính khi đánh giá vấn đề.

Từ sự phân tích ở trên, có thể thấy rằng, yếu tố độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, độc lập trong sự thống nhất với việc tuân theo pháp luật.

1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc

Nguyên tắc “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có một vị trí, vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án cũng như trong tố tụng hình sự.

Thứ nhất, độc lập xét xử là một trong những nguyên tắc đặc thù, mang tính chất riêng trong tố tụng hình sự. Khi xét xử, Hội đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm) sẽ dựa vào những căn cứ hợp lí để đưa ra quyết định hoặc bản án mà không phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay yêu cầu thỏa thuận của người bị hại, của bị can, bị cáo. Sự độc lập xét xử trong tố tụng hình sự là bắt buộc, nó thể hiện tính cứng rắn triệt để theo đúng tinh thần: mọi hành vi phạm tội được phát hiện, xử lí nghiêm minh và kịp thời.

Thứ hai, ý nghĩa chính trị - xã hội: nguyên tắc xác định vai trò, vị trí của Tòa án trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét cử và khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nó đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án không bị ràng buộc bởi bất kì yếu tố nào khác ngoài pháp luật, loại trừ mọi sự can thiệp từ các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân vào hoạt động xét xử của Tòa án. Cùng với sự tham gia của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử, khi xét xử “Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” và “Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cũng đã đảm bảo được quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của Nhà nước trong đó có hoạt động xét xử. Nguyên tắc cũng là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Thứ ba, ý nghĩa pháp lí: nguyên tắc là cơ sở pháp lí để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành hoạt động xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là cơ sở đảm bảo Hiến pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người thi hành pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ có ý nghĩa và tác dụng khi nguyên tắc này được tuân thủ một cách triệt để. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử vừa là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm.

Thứ tư, đối với thực tiễn: nguyên tắc đảm bảo việc xét xử khách quan đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nguyên tắc này loại trừ các sự tác động không cần thiết, thậm chí tiêu cực của các cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm và đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành viên của Hội đồng xét xử. Nguyên tắc này còn tạo tiền đề quan trọng cho việc thực hiện hàng loạt các nguyên tắc khác trong tố tụng hình sự.

1.4 Điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc

Thứ nhất, hệ thống pháp luật hoàn thiện và các quy định có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc.

Thứ hai, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm.

- Thẩm phán: Pháp luật đã quy định cụ thể về tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán. Đối với những Thẩm phán chưa được đào tạo nghiệp vụ xét xử, ngành cần có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, Thẩm phán đương nhiệm cần được chuẩn hóa trình độ, có trình độ cử nhân luật. 

- Hội thẩm: Với một trình độ chuyên môn về những lĩnh vực nhất định, Hội thẩm cũng có thể tự bổ sung kiến thức pháp luật cho mình. Việc tập huấn phải được tổ chức thường xuyên và có chất lượng, tránh việc tập huấn không rõ nội dung, lan man.

Thứ ba, về đạo đức Thẩm phán và Hội thẩm. Đạo đức của Thẩm phán và Hội thẩm phải được hình thành trước khi họ là Thẩm phán, Hội thẩm. Nghĩa là những người được xem xét để bổ nhiệm Thẩm phán phải là những người thư kí giỏi về kiến thức chuyên môn và có đạo đức, bản lĩnh; người được chọn bổ nhiệm Hội thẩm phải là những cán bộ có năng lực, tận tụy với công việc và có uy tín trước quần chúng nhân dân.

Thứ tư, về tổ chức và hoạt động của cơ quan Tòa án: thực hiện tổ chức các Tòa án theo thẩm quyền, việc tổ chức như vậy sẽ các Tòa án với thẩm quyền khác nhau. Nhưng Tòa án khu vực chỉ nên giới hạn trong phạm vi địa bàn một tỉnh, không nên tổ chức địa bàn liên tỉnh. Với mô hình Tòa án như vậy, mối quan hệ giữa Tòa án cấp trên và cấp dưới lúc này sẽ theo hướng chủ yếu là quan hệ tố tụng, tránh được các hiện tượng lâu nay vẫn còn tồn tại như thỉnh thị án, duyệt án, bàn án làm cho Tòa án cấp dưới hay Thẩm phán bị động làm giảm tính độc lập của Tòa án và Hội thẩm nhân dân.

Thứ năm, nâng cao nhận thức của các cá nhân khác về nguyên tắc Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Biện pháp để nâng cao nhận thức về nội dung này có hiệu quả nhất là thông qua việc giải thích, bình luận về nguyên tắc trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua tập huấn nghiệp vụ trong ngành. Bản thân các cán bộ trong ngành tư pháp phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, chí công vô tư, không được để tình cảm cá nhân, quyền lợi riêng tư ảnh hưởng đến việc xét xử. Thẩm phán và Hội thẩm hơn ai hết phải là người thấm nhuần tư tưởng của nguyên tắc, xem đó là lời thề nghề nghiệp, đó là quyền và nghĩa vụ cao cả của Thẩm phán và Hội thẩm.

2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc

2.1 Thực trạng

Trên thực tế, nhiều Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập. Việc báo cáo án và nhận sự định hướng xét xử từ lãnh đạo của Thẩm phán chỉ giải quyết được mối quan hệ hành chính giữa cấp trên và cấp dưới mà không đảm bảo được nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán. 

Hội thẩm hoạt động kiêm nhiệm, quyền lợi không đáng kể, tham gia Hội thẩm chủ yếu do nhiệt tình và ý thức trách nhiệm công dân. Chế độ bồi dưỡng phiên tòa nói chung cũng như cho Hội thẩm có hạn không tương xứng với sức lao động bỏ ra. Thực tế này đã dẫn đến việc ở một số địa phương có tình trạng một số Hội thẩm mặc dù đầu nhiệm kỳ rất nhiệt tình với nhiệm vụ của mình nhưng theo thời gian thì nhiệt tình giảm dần thậm chí xin thôi làm Hội thẩm vì những lý do khác nhau dẫn đến sự thiếu hụt Hội thẩm, ảnh hưởng đến công tác xét xử của Tòa án. Đây là tình hình chung của nhiều địa phương.

2.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc

Thứ nhất, cần thiết phải đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán, cần mở rộng nguồn để tuyển chọn. Để thực sự có được những Thẩm phán có năng lực, cần tuyển chọn Thẩm phán không chỉ từ đội ngũ cán bộ Tòa án, mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác như Điều tra viên, công tố viên, luật sư, cả những luật gia đã qua đào tạo Thẩm phán nhưng chưa làm Thẩm phán.

Thứ hai, cần tiếp tục cải tiến sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và tăng cường chế độ giám sát, kỉ luật đối với Thẩm phán. Chế độ sử dụng và đãi ngộ cần đảm bảo cho Thẩm phán có thể sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ thuộc vào những tác động vật chất từ cá nhân, tổ chức liên quan đến công vụ của họ. Mặt khác cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời phát hiện, cảnh báo phòng ngừa và xử lí nghiêm minh những Thẩm phán hành động không đúng với chức danh của mình. Về mặt chuyên môn nghiệp vụ, các Thẩm phán sau khi được bổ nhiệm phải tham gia bắt buộc vào các khóa bồi dưỡng định kì và trải qua các kì sát hạch, kiểm tra về kiến thức, kĩ năng xét xử, tác phong làm việc.

Việc xác định trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán về án oan sai là một vấn đề phức tạp vì chế độ làm việc nội bộ từng cơ quan Tòa án và giữa các cấp Tòa án vẫn còn hiện tượng bán án, thỉnh thị án, phê duyệt án, sẽ không công bằng khi đặt truy cứu trách nhiệm cá nhân Thẩm phán khi mà độc lập tự quyết, tự chịu trách nhiệm của Thẩm phán không được đảm bảo đầy đủ trên thực tế.

Thứ ba, nâng cao năng lực của Hội thẩm. Việc Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm (hoặc ba Thẩm phán và một Hội thẩm) sẽ vừa đảm bảo tính chuyên nghiệp vừa đảm bảo có đại diện của nhân dân tham gia xét xử, vẫn có thể sử dụng được kinh nghiệm xã hội và khả năng phán quyết các vấn đề của những người xét xử “không chuyên nghiệp” những người đại diện cho mức hiểu biết pháp luật ở mức “phổ thông” của tầng lớp nhân dân.

Thứ tư, cần xem xét việc kéo dài thêm nhiệm kì Thẩm phán so với hiện nay cùng với cơ chế xét tuyển tránh dẫn đến tình trạng Thẩm phán chịu sức ép tâm lí trong suốt nhiệm kì, có thể thực sự không yên tâm. Ngoài ra, hệ tiêu chuẩn chức danh Thẩm phán và các tiêu chuẩn bổ nhiệm, nâng ngạch phải được hoàn thiện theo hướng dựa trên trình độ hiểu biết, mức độ tinh thông nghiệp vụ, kĩ năng và hiệu quả xét xử, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức, sự liêm khiết, trung thực của Thẩm phán, loại trừ tối đa những yếu tố chủ quan, định kiến trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm, tuyển dụng Thẩm phán.

KẾT LUẬN

Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đảm bảo cho tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử của mình theo quy định của pháp luật, đồng thời đề cao tinh thần trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm. Muốn thực hiện tốt được nguyên tắc này, không chỉ đòi hỏi Nhà nước phải có pháp luật hoàn chỉnh, mà quan trọng nhất là sự đòi hỏi ở chính những thẩm phán và hội thẩm phải là những người có trình độ chuyên môn, chính trị, tinh thần tranh đấu bảo vệ pháp luật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2010.
2. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
4. Từ Thị Hải Dương,  “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, Luận văn thạc sĩ luật học, 2009.
5. Nguyễn Thị Lan Hương, “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010.
6. Website:
http://www.vietlaw.gov.vn/
http://luathoc.cafeluat.com/

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Giang Linh - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment