25/11/2014
Tình huống về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản - Bài tập học kỳ Luật Hình sự 2
Bài 4: Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, P đã nhờ Q đến đốt xưởng của N vào ban đêm. Hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng.

Hỏi:

1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q. (2 điểm)

2. Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của H bị say rượu ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này không? Tại sao? (3 điểm)

3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xoá án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (2 điểm)

BÀI LÀM

1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q.

1.1 Tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của Q

* Hành vi của Q đã cấu thành Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 BLHS.

Mặt khách quan :

- Hành vi khách quan: Q đã có hành vi đốt xưởng của N, muốn là hư hại tài sản đó. Hành vi của Q là hành vi cố ý hủy hoại tài sản của người khác.

- Hậu quả của tội phạm: CTTP tội này đòi hỏi có hậu quả là tài sản bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng. Tội phạm được coi là hoàn thành khi hậu quả này đã xảy ra.Hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng.

- QHNQ là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Người có hành vi chỉ phải chịu TNHS về thiệt hại tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng nếu giữa thiệt hại này và hành vi của họ có QHNQ với nhau. Cụ thể ở đây hành vi đốt phân xưởng của Q đã trực tiếp gây ra thiệt hại về tài sản cho N.

Mặt chủ quan của tội phạm:

- Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp: Q nhận thức được rằng hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N có thể bị cháy trụi và Q mong muốn hậu quả đó xảy ra.

+ Về lý trí: Q nhận thức rõ được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình gây ra và thấy trước hậu quả của hành vi đó là gây thiệt hại về tài sản cho N.

+Về ý chí: Q muốn hậu quả xảy ra

Khách thể là quan hệ sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ

=>Hành vi của Q đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu của CTTP về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

* Định tội danh của Q

Theo điểm a Khoản 3 Điều 143 BLHS: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”

Giá trị tài sản mà Q hủy hoại là 350 triệu đồng.

=> Vì vậy mà khung hình phạt áp dụng cho Q là từ 7 năm đến 15 năm

1.2 Tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P

* P cũng bị truy cứu TNHS về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điểm a Khoản 3 Điều 143 BLHS với vai trò là đồng phạm của Q.Đồng phạm đòi hỏi có những dấu hiệu sau:

Mặt khách quan:

- Có từ 2 người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Cụ thể trong trường hợp này P và Q là 2 người có đủ điều kiện về năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS.

- Cùng thực hiện tội phạm (cố ý): P đã có hành vi nhờ Q đến đốt xưởng của N. Như vậy P đã có hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm. P là người xúi giục.

Về mặt chủ quan:

- Dấu hiệu lỗi :

+ Về lí trí:P nhận thức được rất rõ hành vi của mình( xúi giục người khác thực hiện hành vi phạm tội) cũng như của Q là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ và Pcũng nhận thức được rõ sự nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và Q gây ra.

* Về ý chí:

Cả P và Q cùng mong muốn phân xưởng của N bị cháy để trả thù mâu thuẫn trong kinh doanh.

b.Dấu hiệu mục đích:

P muốn hủy hoại phân xưởng của N để trả thủ mẫu thuẫn trong kinh doanh, khiến công việc làm ăn của N gặp trở ngại. Q đã tiếp nhận mục đích đó của P và là người trực tiếp đốt phân xưởng của N

=> Hành vi của P và Q đã thỏa mãn đầu đủ các dấu hiệu của trường hợp Đồng phạm theo Điều 20 BLHS trong đó P là người chủ mưu Q là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

* Khung hình phạt áp dụng cho P cũng tương tự như Q là từ 7 năm đến 15 năm theo điểm a khoản 3 Điều 143 BLHS.Do hậu quả phát sinh vì hành vi đồng phạm của Q và P là như nhau.

2. Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của H bị say rượu ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này không?Tại sao?

Q có phải chịu TNHS về cái chết của người công nhân này vì 

 Mặt chủ quan:

- Lỗi: Hành vi của Q là lỗi vô ý vì quá tự tin.

Q đã có hành vi đốt xưởng khiến 1 công nhân trong xưởng bị thiệt mạng.

+ Về lí trí: Q nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Mặc dù thấy trước được hậu quả chết người (nếu còn người trong xưởng) tuy nhiên Q đã quá tự tin cho rằng sẽ không còn ai trong xưởng( Q cho rằng hậu quả chết người do hành vi của mình sẽ không xảy ra mà chỉ có thể gây thiệt hại về tài sản).

+ Về ý chí: Q không mong muốn hậu quả làm chết người xảy ra. Sự không mong muốn này của Q gắn liền với việc Q đã loại trừ khả năng làm chết người xảy ra ( cho rằng không có ai ở trong xưởng ).

Mặt khách quan:

- Hành vi khách quan: Q đã có hành vi cố tình đốt xưởng.

- Hậu quả: gây thiệt hại về tài sản và gây ra cái chết cho công nhân trong xưởng.

Như vậy hành vi của Q đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP

=> Q phải chịu TNHS về cái chết của công nhân ngủ quên trong xưởng. Theo Điều 98 về Tội vô ý làm chết người: “1.Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.”

3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xoá án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao?

Trường hợp phạm tội của Q là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 49 BLHS: 

“2.Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

a) Đã bị kết án về tội rất nghiệm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý”

* Bản án Q vừa chấp hành là 3 năm tù về tội cướp tài sản, thuộc khoản 1 điều 133 BLHS : “1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”.

Khoản 1 điều 133 BLHS có khung hình phạt cao nhất là đến 10 năm

Mà theo Khoản 3Điều 8 BLHS quy định:“3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” 

=> Loại tội phạm mà Q đã bị kết ánlà tội phạm rất nghiêm trọng

* Q chưa được xóa án tích

* Q phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điểm a khoản 3 điều 143 BLHS:“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: 

a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”

Như vậy khung hình phạt cao nhất cho tội này là đến 15 năm tù

=> Hành vi phạm tội của Q thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.

- Lỗi của Q đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là lỗi cố ý 

=>  Q lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý

=> Từ 3 điều trên có thể thấy trường hợp của Q là tái phạm nguy hiểm do đã thỏa mãn đủ dấu hiệu mà Điểm a Khoản 2 Điều 49 BLHS nêu trên.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, Giáo trình Luật Hình Sự Việt Nam, Tâp 2, nhà xuất bản Công an nhân dân
2, Bộ Luật Hình Sự, Nhà xuất bản Lao động

No comments:

Post a Comment