14/06/2014
Khởi tố vụ án về tội cướp tài sản - Bài tập nhóm Luật Tố tụng Hình sự
Đề bài

Sau khi xác minh có dấu hiệu tội phạm của tội cướp tài sản xảy ra trên địa bàn huyện mình, Cơ quan Điều tra công an Quận X thành phố Y ra quyết định khởi tố vụ án về tội cướp tài sản theo Khoản 1 Điều 133 BLHS và khi phát hiện người thực hiện hành vi phạm tội là A, Cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố bị can với A và đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can.

Câu 1. Việc đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra công an Quận X là đúng hay sai? Tại sao?

Câu 2. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định ngoài A trong vụ án còn có B là đồng phạm và xét thấy cần tạm giam B để đảm bảo thuận lợi cho việc điều tra nên Thủ trưởng Cơ quan điều tra Quận X đã ra lệnh tạm giam B.

Hỏi: Quyết định của Thủ trưởng Cơ quan điều tra Quận X là đúng hay sai? Tại sao?

Câu 3. Giả sử sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra chỉ đề nghị truy tố A và ra quyết định đình chỉ điều tra đối với B vì cho rằng B không thực hiện hành vi phạm tội. Xét thấy việc đề nghị truy tố A là có căn cứ nhưng quyết định đình chỉ điều tra đối với B của Cơ quan điều tra là không có căn cứ và có đầy đủ căn cứ để truy tố B. Viện kiểm sát Quận X đã ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra đối với B và quyết định truy tố B về tội cướp tài sản.

Hỏi: Việc làm của Viện kiểm sát Quận X là đúng hay sai? Tại sao?

Câu 4. Giả sử sau khi Viện kiểm sát quận X chuyển hồ sơ vụ án và quyết định truy tố A và B về tội cướp tài sản cho Tòa án Quận X, khi nghiên cứu hồ sơ, Tòa án thấy có căn cứ xác định A và B phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo Khoản 2 Điều 135BLHS (tội cưỡng đoạt tài sản nhẹ hơn tội cướp tài sản), Tòa án phải giải quyết như thế nào?

Câu 5. Khi bắt đầu phiên tòa, đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử thay đổi 1 trong 2 vị Hội thẩm vì cho rằng vị Hội thẩm này có quan hệ thân thích với người bào chữa của A.

Hỏi: Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế nào nếu thấy lý do của đại diện hợp pháp của người bị hại đưa ra là đúng?

Câu 6. Giả sử tại phiên tòa, người bào chữa đưa ra tài liệu mới xác định khi thực hiện hành vi phạm tội A mới 15 tuổi 11 tháng và tài liệu này được xác định là chính xác.

Hỏi: Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế nào?

Câu 7. Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm, sau khi kết thúc việc xét hỏi, bị cáo yêu cầu triệu tập them người làm chứng đến tòa để xét hỏi.

Hỏi: Hội đồng xét xử giải quyết như thế nào?

Câu 8. Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm, có căn cứ cho rằng A còn phạm thêm tội trộm cắp tài sản xét thấy cần phải điều tra, Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế nào?

Câu 9. Giả sử trong thời hạn luật định, trong số người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo, chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, A rút toàn bộ kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm giải quyết như thế nào?


Câu 10. Xác định chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm trong trường hợp bản án phúc thẩm của TAND thành phố Y bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm?


Bài làm

Câu 1. Trả lời:

Thứ nhất, việc đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án là sai. Vì theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) thì: “Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự” và theo khoản 3 Điều 104 quy định: “Trong thời hạn 24h, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự...quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố”. Vì thế, trong trường hợp Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì “quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra… phải được gửi tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố” trong thời hạn 24 giờ.  Như vậy, Cơ quan điều tra có quyền ra quyết định khởi tố vụ án rồi mới gửi quyết định cho Viện kiểm sát mà không cần thiết phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Và nếu “trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra… không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố đó” (khoản 2 Điều 109).

Thứ hai, việc đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can là đúng. Vì theo khoản 4 Điều 126 BLTTHS thì: “Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra.” Như vậy, quyết định khởi tố bị can phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát mới có hiệu lực, và đây là thủ tục bắt buộc.

Quyết định khởi tố vụ án khác với quyết định khởi tố bị can. Việc khởi tố vụ án hình sự chỉ là việc cơ quan có thẩm xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm. Và đây là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều tra. Nhưng khởi tố bị can là việc cơ quan có thẩm quyền đã xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, danh dự, nhân phẩm của bị can nên việc đưa ra quyết định này phải được xem xét kỹ lưỡng và phải chịu sự kiểm sát chặt chẽ của cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát là Viện kiểm sát.

Câu 2. Trả lời:

Quyết định của Thủ trưởng Cơ quan điều tra quận X là sai. Bắt người trong trong trường hợp này là thuộc trường hợp bắt bị can để tạm giam nhằm đảm bảo thuận lợi cho việc điều tra, nhưng:

Thứ nhất: đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Trong trường hợp này, Cơ quan điều tra mới chỉ xác định B cũng là đồng phạm trong vụ án, và xét thấy cần tạm giam để điều tra, nhưng theo như dữ kiện đầu bài thì không nói đến việc B đã bị khởi tố. Nếu một người chưa bị khởi tố thì chỉ được bắt người (áp dụng các biện pháp cưỡng chế) trong trường hợp khẩn cấp (khoản 1 Điều 81 BLTTHS) hoặc phạm tội quả tang (khoản 1 Điều 82 BLTTHS). Mà trong trường hợp này, T ko thuộc các trường hợp khẩn cấp hay quả tang. Như vậy, việc bắt người này là trái phép.

Thứ hai: theo điểm d, khoản 1 Điều 80 BLTTHS thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có quyền ra lệnh bắt và lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Như vậy, việc Thủ trưởng cơ quan điều tra đưa ra lệnh bắt thì phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp. Như vậy, trong trường hợp này, lệnh bắt là trái luật.

Có thể thấy, một người chỉ bị bắt tạm giam khi có căn cứ người rằng người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, việc bắt tạm giam họ là nhằm ngăn chặn  người đó tiếp tục thực hiện phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra. Chứng tỏ rằng, Cơ quan đã có căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, người đó phải bị khởi tố về hành vi đó thì mới có thể bắt họ được. Và việc bắt người làm ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp, đến danh dự, nhân phẩm của họ vì vậy phải có sự phê chuẩn của Việc kiểm sát.

Câu 3. Trả lời:

Việc làm của viện kiểm sát Quận X là đúng, vì căn cứ theo:

Thứ nhất, điểm đ khoản 2 Điều 36 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: đ) Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra.”

Thứ hai, khoản 5 Điều 112 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: “Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 5) Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;...”

Thứ ba, khoản 4 Điều 164 BLTTHS: “Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố…”. 

Trong tình huống này, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với B vì cho rằng B không thực hiện hành vi phạm tội; nhưng Viện kiểm sát xét thấy quyết định đình chỉ điều tra đối với B là không có căn cứ và có đầy đủ căn cứ để truy tố B, nên đã ra quyết định đình chỉ điều tra đối với B và ra quyết định truy tố B về tội cướp tài sản. Việc làm này hoàn toàn phù hợp với quy định song cần chú ý tới thời gian Viện kiểm sát quận X ra quyết định đình chỉ điều tra và quyết định truy tố B về tội cướp tài sản:

-  Nếu Viện kiểm sát quận X ra quyết định hủy quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố B về tội cướp tài sản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra thì hoàn toàn đúng pháp luật.

-   Nếu Viện kiểm sát quận X ra quyết định hủy quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố B về tội cướp tài sản quá thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra thì không đúng pháp luật.

Câu 4. Trả lời:

Trong trường hợp này, Tòa án sẽ kết án A và B phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 135 BLHS, bởi nó phù hợp với quy định tại điều 196 BLTTHS năm 2003. Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về giới hạn của việc xét xử: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.”

Thứ nhất, căn cứ vào quy định “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.”, ta thấy, Viện kiểm sát đã truy tố A và B về tội cướp tài sản, hơn nữa, hành vi của tội cướp tài sản(điều 133 BLHS) và hành vi của tội cưỡng đoạt tài sản(điều 135 BLHS) đều là hành vi nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, do đó Tòa án có thẩm quyền xét xử A và B. Thứ hai, trong trường hợp này, Viện kiểm sát Quận X truy tố A và B về tội cướp tài sản (điều 133 BLHS) nhưng sau khi chuyển hồ sơ lên cho Tòa án thì khi nghiên cứu hồ sơ, Tòa án đã thấy có căn cứ xác định A và B phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 2 điều 135 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào quy định: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.” Ở đây, tội cưỡng đoạt tài sản (điều 135 BLHS) nhẹ hơn tội cướp tài sản vì căn cứ vào mức hình phạt cao nhất giữa hai tội thì tội cưỡng đoạt tài sản có mức hình phạt cao nhất thấp hơn. Tòa án sẽ xét xử A và B theo khoản 2 Điều 135 BLHS chứ không xét xử A và B phạm tội cướp tài sản như Viện kiểm sát đã truy tố.

Trên thực tế, trong trường hợp cần thiết và những trường hợp hai bên có những bất đồng về vụ án thì Toà án triệu tập cuộc họp trù bị có đại diện của Viện kiểm sát tham gia. Viện kiểm sát chỉ truy tố hành vi phạm tội của bị cáo ra Toà án còn việc kết án bị cáo về tội gì là do Hội đồng xét xử quyết định sau khi đã xem xét các tình tiết của vụ án một cách công khai tại phiên toà, đúng như tinh thần tranh tụng mà Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã đề ra “việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà”.

Câu 5. Trả lời: 

Trong trường hợp có căn cứ chứng minh một trong hai vị Hội thẩm có quan hệ thân thích với người bào chữa của A thì vị Hội thẩm đó phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 42 BLTTHS: “người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu: 1. Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;”.

Khi bắt đầu phiên tòa, nếu có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư kí tòa án, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định (Điều 202 BLTTHS). Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử  hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có đề nghị thay đổi ai trong những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch hay không. Khi có người yêu cầu thay đổi ai trong số những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì căn cứ vào điều luật tương ứng quy định tại các điều 42, 45, 46, 47, 60, 61 và 202 BLTTHS và hướng dẫn tương ứng tại các mục 3,4,5,6 và 8 Phần I Nghị quyết số 03/2004 để xem xét và quyết định. Theo đó, “Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định trước khi bắt  đầu xét hỏi bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án. Khi xem xét thành viên nào thì thành viên đó được trình bày ý kiến của mình, Hội đồng quyết định theo đa số. Trong trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa, thì 
Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa. Việc cử thành viên mới của Hội đồng xét xử do Chánh án Tòa án quyết định”(khoản 2 Điều 46 BLTTHS). Quyết định về việc thay đổi người tiến hành tố tụng (thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án), người giám định, người phiên dịch phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 199 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 3 Phần II Nghị quyết số 04/2004.

Tuy nhiên đối với trường hợp này, chỉ có 1 trong 2 Hội thẩm có quan hệ thân thích với người bào chữa của A thì đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ có thể yêu cầu thay đổi vị Hội thẩm đó mà không phải thay đổi cả 2 vị hội thẩm.

Câu 6. Trả lời:

Hội đồng xét xử sẽ phải ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung theo Khoản 2 Điều 199 BLTTHS năm 2003. Vì các lý do sau:

Thứ nhất: người bào chữa đưa ra tài liệu xác đáng, hợp pháp chứng minh A đúng là 15 tuổi 11 tháng thì A là người chưa thành niên (theo Điều 68 – Bộ Luật Hình sự năm 1999: Người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi). Khi đó trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử áp dụng đối với A phải là thủ tục đặc biệt – thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Thủ tục tố tụng đặc biệt này có rất nhiều điểm khác so với thủ tục tố tụng đối với người thành niên. A là người chưa thành niên, nhưng vì lý do nào đó, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án (trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm) không phát hiện ra, nên đã áp dụng thủ tục tố tụng thông thường đối với A từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nên đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vì thế, Hội đồng xét xử trong phiên tòa sơ thẩm không thể tiếp tục xét xử như bình thường.

Thứ hai: khi phiên tòa sơ thẩm diễn ra thì mọi quyết định của tòa án về vụ án phải do Hội đồng xét xử quyết định. Theo Điều 199 – Bộ luật Tố tụng Hình sự thì ngoài việc ra bản án thì Hội đồng xét xử chỉ được ra các quyết định sau: Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử (Điều 46 - BLTTHS), Kiểm sát viên (Điều 45 - BLTTHS), Thư ký Tòa án (Điều 47 - BLTTHS), người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo. 

Như vậy, với hai lý do trên nếu Hội đồng xét xử không ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung để Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sửa chữa những sai lầm trong thủ tục tố tụng đối với bị cáo A thì nếu bản sơ thẩm có được đưa ra thì chắc chắn sẽ bị hủy bởi tòa phúc thẩm vì lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Câu 7. Trả lời:

Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo xem bị cáo có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không, thì lúc này bị cáo sẽ yêu cầu tòa án triệu tập thêm người làm chứng để xét hỏi theo quy định tại Điều 216, BLTTHS 2003: “Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.” 

Hội đồng xét xử sẽ xem xét nếu việc triệu tập người người làm chứng có ý nghĩa làm sang tỏ thêm tình tiết của vụ án, thì Hội đồng xét xử sẽ quyết định triệu tập người làm chứng và tiếp tục việc xét hỏi, còn nếu việc triệu tập người làm chứng chỉ là một hình thức của bị cáo yêu cầu chứ không có ý nghĩa làm sáng tỏ vụ án thì tòa án quyết định không triệu tập them người làm chứng mà chuyển sang phần tranh tụng. Việc triệu tập them người làm chứng được lập thành văn bản.

Câu 8. Trả lời:

Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án đối với hành vi mà hội đồng xét xử cho là A còn phạm thêm tội trộm cắp tài sản Theo quy định tại đoạn 3 Khoản 1 Điều 104 BLTTHS về Quyết định khởi tố vụ án hình sự. Cụ thể: “Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 111 của Bộ luật này.

Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.

Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.”

Sau đó, tòa án hoặc Viện kiểm sát sẽ gửi hồ sơ, tài liệu liên quan cho cơ quan điều tra để điều tra, xác minh hành vi của A có phải là tội trộm cắp tài sản không. Khi có đầy đủ chứng cứ cho thấy tội danh thì ra quyết định khởi tố A với tội danh trộm cắp tài sản.

Câu 9. Trả lời:

Trong giả sử này, Hội đồng xét xử phúc thẩm  sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với A, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với A. Đối với những người không kháng cáo, kháng nghị thì hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm.

Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với A, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với A. Vì theo nghị định số 05/2005/NQ – HĐTP hướng dẫn: “Trong trường hợp người kháng cáo và Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị trước khi bắt đầu hoặc tại phiên toàn (trong vụ án không có kháng cáo, kháng nghị) thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Trước khi mở phiên toà việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do thẩm phán được phân công chủ  toạ phiên toà thực hiện, còn tại phiên toà do Hội đồng xét xử thực hiện. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày toà án phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.” Như vậy trong trường hợp trên thì A là người kháng cáo,và tại phiên toà phúc thẩm A đã rút toàn bộ kháng cáo. Và theo nghị định số 05/2005/NQ – HĐTP thì hội đồng xét xử sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với A. Đối với những người không kháng cáo , kháng nghị thì hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm.

Còn đối với những người không kháng cáo kháng nghị thì  bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị. Vì theo điều 240 bộ luật tố tụng hình sự về hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm của toà án không có kháng cáo kháng nghị như sau: “Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của toà án, quyết định sơ thẩm của toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.”

Câu 10: Trả lời:

Trong trường hợp bản án phúc thẩm của TAND thành phố Y bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm.

Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 273 BLTTHS năm 2003, chủ thể có quyền kháng nghị sẽ làm đơn kháng nghị bản án, quyết định của Toà cấp phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

Chủ thể có thầm quyền kháng nghị giám đốc thẩm được qui định tại ĐIều 275. Căn cứ theo khoản 1 Điều 275 BLTTHS 2003: “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiẻm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.”

Trong tình huống bài tập đưa ra, nếu bản án phúc thẩm của TAND thành phố Y bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm ở trường hợp này sẽ được xác định căn cứ vào Khoản 2 Điều 279 Bộ luật tố tụng hính sự năm 2003: “Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu”.

Vậy, chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm trong trường hợp bản án phúc thẩm của TAND thành phố Y bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao.

Tài liệu tham khảo

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
3. Bộ luật hình sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
4. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “NHững uy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
5. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
6. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Giang Linh - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment