05/11/2014
Phân tích các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực hiện - Bai tập lớn học kì - môn Tố Tụng Dân Sự
Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những chế định pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự. Chế định pháp lý này ghi nhận về biện pháp tố tụng tương đối đặc biệt, được Tòa án sử dụng kết hợp với các biện pháp tố tụng khác như chứng minh, hòa giải... nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Để tìm hiểu quy định của pháp luật về quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT em xin lựa chọn đề tài:“Phân tích các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực hiện.”

NỘI DUNG

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI.

1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời

Trong quá trình tò tòa án giải quyết vụ việc dân sự thì đôi khi tòa án phải quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp cần thiết để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm thi hành án. Các biện pháp này được gọi là Biện pháp khẩn cấp tạm thời: “ Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp mà tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm việc thi hành án” 

2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời

Với mục đích là để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc bảo vệ kịp thời cac quyền và lợi ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống cũng như những người sống phụ thuộc vào họ.

Thực tế vì những xung đột lợi ích nên có những vụ việc đương sự đã tẩu tán tài sản, hủy hại chứng cứ… nhằm gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, việc áp dụng BPKCTT sẽ nhằm ngăn chặn các hành vi nêu trên, bảo vệ chứng cứ, giữ nguyên được giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được chính xác, bảo vệ quyền lợi của đương sự. Mặt khác qua đó còn bảo đảm được tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ được tài sản bảo đảm cho việc thi hành án sau này. Ngoài ra, áp dụng BPKCTT còn góp phần bảo đảm an toàn, trật tự xã hội.

3. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời 

Theo quy định tại Điều 102 BLTTDS thì có 12 BPKCTT được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự đó là: Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục (Điều 103 BLTTDS);  Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 104); Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm (Điều 112); Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án (Điều 113); Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án (Điều 114). Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định (Điều 115) và các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.

II. Quy định của pháp luật về về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm.

1. Tòa án sơ thẩm


1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Việc áp dụng BPKCTT là nhằm bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đối tượng có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT được quy định tại khoản 1 Điều 99 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 và Điều 1 Nghị quyết 02/2005  thì những chủ thể này bao gồm: 

+ Các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự;
+ Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Như các cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định; Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do Bộ luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan quy định.
Ngoài ra, Tòa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng BPKCTT đối với một số biện pháp quy định tại khoản 1,2,3,4,5 Điều 102 BLTTDS (Điều 119BLTTDS).

1.2. Thời điểm được yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 99 BLTTDS thì ngoài được khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án còn được nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, cá nhân, cơ quan tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng ngay BPKCTT vào cùng thời điểm nộp đơn khởi kiện (trước khi tòa án thụ lý vụ án). Đây chính là điểm tiến bộ và cũng là điểm mới của BLTTDS năm 2004 so với quy định PLTTGQVADS năm 1989 trước đây. 

1.3. Thẩm quyền, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT được xác định theo thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 100 BLTTDS thì: Trước khi mở phiên tòa, việc giải quyết một vụ án dân sự do một thẩm phán tiến hành nên việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT do một thẩm phán xem xét, quyết định. Tại phiên tòa, việc giải quyết vụ án do Hội đồng xét xử tiến hành nên việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

1.3.1. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

- Thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp phải có đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 117 BLTTDS thì người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải gửi đơn đến tòa án có thẩm quyền. Nội dung của đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có các nội dung chính quy định tại khoản 1 Điều 117 và kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu còn phải cung cấp chứng cứ, tài liệu chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó. Ta thấy, chính quy định này đã hạn chế được tình trạng đưa ra yêu cầu không có căn cứ và giúp Tòa án có cơ sở đầy đủ để ra quyết định áp dụng BPKCTT một cách nhanh chóng nhằm đạt được hiệu quả cao khi ra quyết định áp dụng BPKCTT.

Trong trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT  trong quá trình giải quyết vụ án (kể từ thời điểm Toà án thụ lý vụ án). Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 BLTDS và Mục 5 Nghị quyết 02/ 2005 hướng dẫn khoản 2 Điều 117 BLTTDS thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Thẩm phán phải xem xét người yêu cầu có thuộc một trong các đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 99 BLTTDS hay không. Nếu không đúng đối tượng hoặc không đúng lý do yêu cầu, thì Thẩm phán trả lại đơn yêu cầu cho họ. Nếu đúng đối tượng, đúng lý do yêu cầu, thì Thẩm phán tiếp tục xem xét, giải quyết. 

Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu:

+ Nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 của BLTTDS Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp 
khẩn cấp tạm thời; 

+ Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. 

Trong trường hợp tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận được yêu cầu áp dụng BPKCTT theo quy định tại khoản 2 Điều 117 BLTTDS và tiểu mục 5.5 Nghị quyết 05/2005 hướng dẫn khoản 2 Điều 117 BLTTDS thì Hội đồng xét xử phải xem xét đơn và các chứng cứ kèm theo, hỏi ý kiến của người yêu cầu và người bị yêu cầu áp dụng BPKCTT, thảo luận và thông qua tại phòng xử án.

Trong trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT được thực hiện cùng với đơn khởi kiện. Theo quy định của khoản 2 Điều 99 thì trong một số trường hợp chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT có thể nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT đồng thời với đơn khởi kiện như do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải giải quyết ngay, không chậm trễ; cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra. 

Đối với các trường hợp này thì theo quy định tại khoản 3 Điều 117 BLTTDS và 6 Nghị quyết 02/2005 hướng dẫn khoản 3 Điều 117 BLTTDS thì đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT nộp cùng đơn khởi kiện thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo Chánh án Tòa án chỉ định một thẩm phán thủ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo để xác định đơn khởi kiện có thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Toà án mà họ yêu cầu áp dụng BPKCTT hay không:

+ Nếu thuộc thẩm quyền thì tiếp tục xem xét giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT thì thủ tục được thực hiện tương tự như đối với trường hợp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ án (hướng dẫn tại các tiểu mục 5.2, 5.3 và 5.4 mục 5 Nghị quyết 02/2005). Trong trường hợp tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT là phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước, phong tỏa tài khoản phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ thì tài khoản, tài sản được phong tỏa phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện. Trường hợp thẩm phán không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT thì phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu biết và trong đó có nêu rõ lý do của việc không chấp thuận .

+ Nếu không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và các chứng cứ kèm theo cho họ.

- Thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp tòa án tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 99 và Mục 3 Nghị quyết 02/2005 hướng dẫn khoản 3 Điều 99 BLTTDS và Điều 119 BLTTDS thì: Toà án tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 BLTTDS trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do vậy, khác với trường hợp áp dụng BPKCTT khi có đơn yêu cầu thì trường hợp này không có bước nhận đơn cũng như xem xét yêu cầu.
Trong quá trình xem xét giải quyết thì Tòa án phải lưu ý không được tự mình áp dụng BPKCTT không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 119 BLTTDS; không áp dụng các BPKCTT vượt quá yêu cầu cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Nếu thực hiện không đúng quy định này mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường (khoản 2 Điều 101 BLTTDS).

1.3.2. Thủ tục thay đổi, hủy bỏ BPKCTT

- Về thủ tục thay đổi: Theo quy định tại Điều 121 BLTTDS và hướng dẫn tại Mục 10 Nghị quyết 02/2005 thì thủ tục yêu cầu và xem xét quyết định về việc thay đổi BPKCTT được thực hiện như thủ tục áp dụng BPKCTT. 
Trong hợp người có đơn yêu cầu thay đổi BPKCTT mà không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc thực hiện ít hơn biện pháp bảo đảm mà họ đã thực hiện, thì Tòa án quyết định cho họ nhận lại toàn bộ hoặc một phần khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mà họ đã nộp, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng và người thứ ba.
Trong trường hợp người yêu cầu có đơn xin thay đổi BPKCTT mà việc thay đổi đó không có lợi cho người bị áp dụng thì Tòa án yêu cầu họ phải trình bày rõ trong đơn lý do xin thay đổi hoặ áp dụng bổ sung BPKCTT khác và cũng phải cung cấp tài liệu cần thiết chứng minh cho yêu cầu của mình là chính đáng.

- Về thủ tục hủy bỏ BPKCTT: Theo quy định tại Điều 122 BLTTDS thì Toà án ra ngay quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi có một trong các trường hợp sau đây: Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị huỷ bỏ; Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp hủy bỏ BPKCTT, Tòa án phải xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng BPKCTT nhận lại khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khi thực hiện biện pháp bảo đảm và khi áp dụng quy định quy định tại Điều 120, trừ trường hợp: Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường (khoản 1 Điều 101 BLTTDS)

Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT có hiệu lực thi hành ngay. Khi ban hành quyết định này, Tòa án gửi ngay quyết định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ quant hi hành án dân sự có thẩm quyền và Viện Kiểm sát cùng cấp. Cơ quan thi hàn án chịu trách nhiệm thi hành quyết định này. 

1.4. Khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Theo quy định tại Điều 124 BLTTDS thì đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT hoặc việc thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT hoặc trả lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT.

Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 125 BLTTDS và Mục 11 Nghị quyết 02/2005 hướng dẫn 125 BLTTDS thì trong trường hợp có khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát thì Chánh án Tòa án phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị trước khi mở phiên tòa trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTDS.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 125 BLTTDS và Mục 12 Nghị định 02/2005 thì trong trường hợp tại phiên tòa thì việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng.

+ Nếu tại phiên tòa đương sự, Viện kiểm sát có yêu cầu giải quyết khiếu nại, kiến nghị đó, thì Hội đồng xét xử không chấp nhận và giải thích cho đương sự biết là họ có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT; hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT.

+ Nếu đương sự có khiếu nại, Viện kiểm sát có kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của Hội đồng xét xử hoặc việc Hội đồng xét xử không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử xem xét, thảo luận và thông qua tại phòng xử án.
+ Nếu không chấp nhận khiếu nại, kiến nghị thì không phải ra quyết định bằng văn bản nhưng phải thông báo công khai tại phiên tòa việc không chấp nhận khiếu nại, kháng cáo và nêu rõ lý do và phải ghi vào biên bản phiên tòa. Nếu chấp nhận khiếu nại, kháng cáo thì phải ra quyết định bằng văn bản. Tóa án phải cấp hoặc gửi quyết định này theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTDS. 

1.5. Trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng.

Theo quy định tại Điều 101 BLTTDS nếu việc áp dụng BPKCTT không đúng làm ảnh hưởng đến quyền lợi, lợi ích của người bị áp dụng thì trách nhiệm sẽ thuộc về chính người có yêu cầu áp dụng BPKCTT. Cụ thể:

- Trường hợp người có yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba thì họ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền yêu cầu đó (khoản 1 Điều 101 BLTTDS).

- Trường hợp Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 101 BLTTDS và Mục 4 Nghị quyết 02/2005: Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Tòa án chỉ bổi thường phần vượt quá).

2. Tòa án phúc thẩm
Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ở tòa án Phúc thẩm được quy định tại Điều 261 BLTTDS: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Chương VIII của Bộ luật này”. Về cơ bản các quy định tại chương VIII BLTTDS là những quy định nhằm áp dụng cho giai đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Do đó trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm nếu có yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT thì việc xem xét, giải quyết được thực hiện theo quy định tại các điều tương ứng của chương VIII BLTTDS về các biện pháp khẩn cấp tạm thời và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2005 của HĐTP - TANDTC như trình bày ở trên.
Trong trường hợp đương sự kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm mà trong đơn kháng cáo hoặc kèm theo đơn kháng cáo, đương sự khiếu nại quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của tòa án sơ thẩm thì tòa án phúc thẩm thông báo ngay cho người yêu cầu là tòa án phúc thẩm không có quyền giải quyết khiếu nại và giải thích cho họ có quyền yêu cầu tòa án phúc thẩm thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT, hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định chung của BLTTDS và hướng dẫn trong Nghị quyết 02/2005.

III. Thực tiễn thực hiện quy định về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

1. Những thành tựu đạt được

- Phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT có sự mở rộng hơn so với pháp lệnh trước đây. Theo quy định tại Điều 99 BLTTDS thì ta thấy BLTTDS không chỉ tạo cơ hội cho các đương sự tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn cho đương sự cơ hội được một chủ thể khác như cơ quan, tổ chức, Tòa án bảo vệ thông qua yêu cầu áp dụng BPKCTT .

- Với quy định mới cho phép người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT được yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng với thời điểm nộp đơn khởi kiện sẽ giúp đương sự có thêm cơ hội để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của mình.

- Thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định của BLTTDS và văn bản hướng dẫn thì tùy vào từng thời điểm tố tụng trong giải quyết vụ án, có thể là Chánh án phân công giải quyết vụ án dân sự (đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT sau khi đã thụ lý nhưng trước phiên tòa xét xử), Hội đồng xét xử nếu tại phiên tòa.

2. Những bất cấp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT

- Về vấn đề chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT thì chưa có sự thống nhất về quy định của pháp luật. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 99 BLTTDS quy định cơ quan, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác theo luật định có quyền yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT trong khi Điều 118 BLTTDS lại quy định thừa nhận cơ quan, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác theo luật định có quyền kiến nghị Tòa án áp dụng BPKCTT. Chính điều này đã làm cho các chủ thể này không nắm được là sẽ phải làm đơn yêu cầu hay văn bản kiến nghị Tòa án áp dụng BPKCTT. Bên cạnh đó, việc không quy định thống nhất này dẫn tới một vướng mắc về trách nhiệm bồi thường khi yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng, cụ thể là nếu cơ quan, tổ chức gửi đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT không đúng và gây thiệt hại thì phải bồi thường. Nhưng nếu là kiên nghị Tòa án thì cơ quan, tổ chức này không phải bồi thường (Điều 118 không quy định trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này). Do đó, Điều 99 và Điều 118 BLTTDS cần phải sửa đổi để có quy định một cách thống nhất về quyền yêu cầu của cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho người khác.

- Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ cho phép thời điểm được yêu cầu áp dụng BPKCTT sau khi khởi kiện và sớm nhất là cùng với đơn khởi kiện (Điều 99 BLTTDS). Thực tế có nhiều trường hợp, đương sự chỉ muốn yêu cầu tòa án áp dụng ngay một biện pháp KCTT để bảo toàn tài sản và bảo vệ quyền và lợi ích của mình mà không muốn khởi kiện hoặc sau đó, họ tự giải quyết được tranh chấp nên không khởi kiện. Tuy nhiên với quy định trên để Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ khi các đương sự phải khởi kiện, kể cả trường hợp họ không muốn. Do đó phải chăng nên thừa nhận quyền yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT của đương sự khi họ không khởi kiện và coi yêu cầu này là một loại việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

- Thủ tục xem xét, ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định tại Điều 117 BLTTDS không có quy định về thủ tục gửi quyết định không áp dụng BPKCTT sang cho Viện kiểm sát và khoản 2 Điều 123 BLTTDS chỉ quy định việc gửi quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT sang cho viện kiểm sát. Như vậy, nếu Tòa án không ra quyết định áp dụng BPKCTT thì VKS sẽ không thể kiểm sát được là việc không ra quyết định đó của Tòa án là đúng hay không. Cụ thể: khoản 2 Điều 117 chỉ quy định trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT thì Thẩm phán phải thông báp bằng văn bản cho người yêu cầu biết nhưng lại không có quy định phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát. Do đó, Viện kiểm sát khó có thể thực hiện được quyền kiến nghị về việc Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT theo Điều 124 BLTTDS. Để đảm bảo tính minh bạch, khách quan của việc giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT thì bộ luật tố tụng dân sự nên bổ sung quy định về việc phải thông báo cho Viện kiểm sát biết về việc không ra quyết định áp dụng BPKCTT.

- Về căn cứ hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thực tiễn xét xử cho thấy có những trường hợp cần hủy bỏ ngay BPKCTT đã áp dụng nhưng các Thẩm phán không có căn cứ pháp luật để thực hiện, như trường hợp sau: Khi đã áp dụng BPKCTT rồi sau đó Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại các điểm c, d, e, g khoản 1 Điều 192 BLTTDS mà người yêu cầu áp dụng BPKCTT không yêu cầu hủy bỏ BPKCTT đã áp dụng. Do vậy, cần bổ sung khoản 1 Điều 122 BLTTDS về trường hợp này. 

- Về trách nhiệm của Tòa án trong áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tòa án sẽ phải bồi thường trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 101 BLTTDS. Tuy nhiên, các căn cứ này chỉ đề cập thới trách nhiệm của Tòa án khi áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại, do đó, các trường hợp Tòa án không ra quyết định, chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT thì trách nhiệm của Tòa án trong các trường hợp này như thế nào. Do vậy, để xác định đầy đủ trách nhiệm của Tòa án cần bổ sung khoản 2 Điều 101 BLTTDS thêm căn cứ nữa đó là: “Tòa án phải bồi thường thiệt hại cho người đưa ra yêu cầu, nếu tòa án có lỗi trong việc không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba”.

- Việc áp dụng BPKCTT trong thời gian tạm đình chỉ vụ việc dân sự. Hiện nay đang tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng Tòa án vẫn được ra quyết định áp dụng BPKCTT trong thời hạn tạm đình chỉ vụ án. Quan điểm thứ hai, Tòa án không được ra quyết định áp dụng BPKCTT trong trường hợp nêu trên . Theo quan điểm cá nhân em cho rằng Tòa án vẫn có thể ra quyết định áp dụng BPKCTT để đáp ứng nhu cầu cấp bách, kịp thời đối với yêu cầu của đương sự và cho chính vụ việc đang giải quyết.

KẾT LUẬN

Qua tìm hiểu các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thự hiện.Chúng ta thấy rằng, mặc dù BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011 quy định khá cụ thể và được hướng dẫn trong Nghị định 02/2005, tuy nhiên thực tế khi áp dụng vẫn còn gặp một số vướng mắc như phần bài làm phía trên em đã trình bày.

No comments:

Post a Comment