18/10/2014
Bài tập tình huống phân biệt tội cướp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản - Luật Hình sự 2
ĐỀ BÀI: Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:

1. H và Q phạm tội cướp tài sản.
2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.

Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào là đúng, ý kiến nào là sai và giải thích.

A. Mở bài

Tội phạm xâm hại quan hệ tài sản được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi một hình thức thể hiện lại có những đặc điểm riêng, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp trên thực tế, việc phân định tội danh không phải lúc nào cũng dễ dàng vì các tình tiết của vụ phạm tội dễ khiến người xét xử nhầm lẫn. Cụ thể trong trường hợp đề số 4 nêu trên đã có 3 ý kiến về tội danh của người phạm tội. Trong bài tập lớn này, em xin phân tích đề bài để làm rõ ý kiến nào đúng và ý kiến nào sai.

B. Thân bài

Em xác định có 2 ý kiến sai và 1 ý kiến đúng. Trong đó ý kiến cho rằng H và Q phạm tội trộm cắp là đúng và hai ý kiến kia sai. Để chứng minh cho ý kiến đúng, em sẽ phân tích từng tội danh.

Nhận xét các ý kiến về tội danh của H và Q:

1. H và Q phạm tội cướp tài sản.

Đây là ý kiến sai. H và Q không phạm tội cướp tài sản. Vì:

Khoản 1 Điều 133 BLHS quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”.

Mặt khách quan: hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.

Cướp là một trong các hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm mục đích tư lợi cho mình  hoặc là đem tặng, cho, biếu, cấp phát…cho những người mà mình quan tâm. Cướp của cải, tài sản đã xuất hiện ngay khi có chế độ tư hữu và xã hội phân chia thành những người giàu và người nghèo. Phương thức cướp tài sản thường là sử dụng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) để đè bẹp sự chống cự hoặc làm tê liệt sự phản kháng, chống đối lại người có tài sản. Đe dọa dùng vũ lực là hành vi của người cướp tài sản đã sử dụng lời nói hoặc cử chỉ hay hành động đe dọa xâm phạm ngay đến tính mạng, sức khỏe và làm tê liệt ngay ý chí chống cự  - phản kháng của người có tài sản. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở đây có đặc điểm là ngay tức khắc. Đặc điểm này dùng chỉ sự khẩn trương, nhanh chóng có thể xảy ra chớp nhoáng ngay về mặt thời gian, đồng thời đặc điểm này còn dùng để chỉ sự mãnh liệt của sự đe dọa ở mức độ có thể xảy ra ngay lập tức làm cho người bị đe dọa tê liệt ý chí chống cự, phản kháng của mình. Các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là  những hành vi mà khi sử dụng đến nó thì nó có khả năng cản trở được sự phản kháng hay chống đối của người có tài sản, chẳng hạn: hành vi đầu độc bằng thuốc mê hoặc là giam giữ người đế chiếm đoạt tài sản…

Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp và mục đích chiếm đoạt tài sản. 

Về mặt lỗi: Đây là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội cả H, Q đều biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội là xâm phạm quan hệ sở hữu nhưng vẫn làm và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Khi thấy B và bạn của chị trong tình trạng say rượu H, Q đã dễ dàng chiếm đoạt tài sản.

Về mặt mục đích phạm tội: Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội cướp tài sản. Mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng được coi là dạng đặc biệt của mục đích chiếm đoạt. Như vậy, những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay làm cho người khác bị tấn công không thể chống cự được nhằm mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng bị coi là cấu thành tội cướp tài sản. Mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng được thực tiễn xét xử coi là một dạng đặc biệt của mục đích chiếm đoạt (trường hợp chuyển hóa tội phạm theo thông tư 02/2001/TANDTC- VKSNDTC- BCA- BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV: “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS 1999)

Chủ thể: chủ thể thường, đủ năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi theo luật định. Ở đây đề bài không nêu H và Q có dấu hiệu hạn chế về năng lực hành vi, mắc bệnh tâm thần…và độ tuổi nên ta mặc nhiên coi H và Q đã đủ tuổi và không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét về mặt chủ quan thì đúng là H và Q cố ý chiếm đoạt tài sản của chị B, tuy nhiên xét về mặt khách quan thì hành vi của H và Q không phù hợp với các đặc điểm trên. Vì H và Q không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho chị B lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Xét về yếu tố khách quan cơ bản nhất của tội cướp tài sản là “Có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được” và “Nhằm chiếm đoạt tài sản”. Hai yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau, không tách rời nhau, thiếu một trong hai yếu tố này thì không cấu thành tội cướp tài sản. Nếu có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là yếu tố cấu thành tội cướp tài sản và ngược lại.

2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Ý kiến này sai. H và Q không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Vì:
Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng hoàn cảnh chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản, công khai chiếm đoạt tài sản của họ. Còn có thể hiểu công nhiên chiếm đoạt tài sản là công khai chiếm đoạt tài sản mà không cần dùng thủ đoạn tích cực để chống lại chủ tài sản. Tội danh này được quy định tại Điều 137 BLHS.

Mặt khách quan: lợi dụng hoàn cảnh chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản, công khai chiếm đoạt tài sản của họ.

Do đặc điểm riêng của tội này nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt” nhưng bằng hình thức công khai với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh…Tính chất công khai, trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan nhưng lại là một đặc điểm cơ bản đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên với mọi người xung quanh. Hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản có tính chất công khai trước mặt chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản, trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản. Về hành vi phạm tội, thì hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi có tính chất chiếm đoạt. Đây là dấu hiệu bắt buộc đòi hỏi người phạm tội phải có. Như vậy hành vi chiếm đoạt không còn là mục đích hành động mà phải được thực hiện trong thực tế.

Ở trường hợp này cả H và Q đã có hành vi chiếm đoạt là lấy tài sản của chị B, H và Q không lén lút, che giấu hành vi chiếm đoạt của mình nhưng do hoàn cảnh khách quan thuận lợi là trời tối vắng vẻ, chị B và những người bạn đều trong tình trạng say không biết gì nên không có điều kiện ngăn cản. Hành vi chiếm đoạt của H và Q đã không hề công khai với chủ quản lí tài sản là chị B, cũng như đối với những người xung quanh là bạn chị. Trong khi đó, hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản có tính chất công khai trước mặt chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản, trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản. Điều này đã góp phần khẳng định rõ ràng H và Q không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

 Tóm lại, đối với chủ sở hữu tài sản là chị B thì H và Q có hành vi lén lút chiếm đoạt một cách bất hợp pháp tài sản là nữ trang bằng vàng đang trong sự quản lý của chị B. 

Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp và mục đích chiếm đoạt tài sản. 

Về mặt lỗi: tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.

Về mặt mục đích phạm tội: Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. 

Chủ thể: chủ thể thường, đủ năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi theo luật định.

3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.

Ý kiến này hoàn toàn đúng. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản. Vì:

Tội trộm cắp tài sản được biểu hiện ở hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang được người khác quản lí. Tội danh này được quy định tại Điều 138 BLHS.

Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như những tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản. Đối tượng tác động ở đây là tài sản – vàng. Trong trường hợp đề bài nêu thì H và Q cũng chỉ có hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu và không hề có hành vi xâm phạm nhân thân của chị B hay những người bạn của chị B nên H và Q không thể phạm tội cướp tài sản. Vì khi lấy tài sản thì chủ sở hữu tài sản là chị B và các bạn của chị đang trong tình trạng say, không có điều kiện để ngăn cản hành vi phạm tội của H và Q, hơn nữa khi đó trời lại tối và vắng vẻ. Do đó cả H và Q không có ý định hay hành vi nào nhằm đối phó lại chị B và những người xung quanh.

Mặt khách quan:

Hành vi trộm cắp tài sản chỉ bị coi là tội phạm khi thỏa mãn điều kiện được quy định trong Điều 138 BLHS: “ 1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm….” Tội phạm đã hoàn thành kể từ khi người phạm tội lén lút chiếm đoạt, dịch chuyển tài sản của người khác khỏi vị trí ban đầu là thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt được xác định ngay từ thời điểm dịch chuyển đó.

Hành vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản có hai dấu hiệu phân biệt với hành vi chiếm đoạt của những tội khác đó là dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ.

Hành vi chiếm đoạt tài sản của tội trộm cắp tài sản có tính chất lén lút, có nghĩa: hành vi chiếm đoạt có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện cũng là lén lút. 

Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. 

Ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, người đó có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Việc che giấu này chỉ đòi hỏi đối với người có trách nhiệm đối với tài sản. Nhưng trong thực tế, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản cũng có thể là lén lút, che giấu đối với người khác. Với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản. Tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt phải đang nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu về tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý. Tài sản vô chủ hoặc đang không có người quản lý không phải là đối tượng của tội trộm cắp tài sản.

Trong tội trộm cắp tài sản, hành vi lén lút không nhất thiết chỉ có hành vi rình mò, vụng trộm, rón rén, chui lủi… để tiếp cận tài sản và thực hiện hành vi chiếm đoạt nhưng không ai thấy, không ai phát hiện… mà hành vi trộm cắp có thể diễn ra một cách công khai trước sự chứng kiến của nhiều người, nhưng những người chứng kiến đó không hề hay biết người phạm tội đang thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. 
Cũng có thể người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản công khai hành vi chiếm đoạt trước người khác nhưng lại lén lút, che giấu hành vi chiếm đoạt đối với chủ sở hữu về tài sản (hoặc người quản lý về tài sản). Ví dụ: hành vi móc túi, móc ví, móc điện thoại di động trên tàu xe hoặc giữa đám đông…

Như vậy, xét trong tình huống này: sự lén lút trong việc phạm tội trong trường hợp này thể hiện ở việc lợi dụng chủ sở hữu đang trong tình trạng say rượu không biết gì để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của chủ tài sản là chị B. Vì say nên chị B và hai người bạn không hề biết bị H và Q lấy mất tài sản, chỉ sau khi tỉnh rượu thì họ mới biết là mình bị mất tài sản và đi báo công an. Ở đây H và Q đã lén lút lấy đi số nữ trang của chị B trị giá 10 triệu đồng, tuy công khai với tài sản nhưng cả H và Q đều có hành vi lén lút với chủ tài sản là chị B và những người xung quanh nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình.

 Như vậy, mặc dù hành vi của H và Q diễn ra một cách công khai nhưng tính chiếm đoạt của hành vi thì được che đậy, giấu diếm, vì vậy không ai biết và không ai phát hiện ra. Điều này khác với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, khi người phạm tội có hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác thì người quản lý tài sản (hoặc chủ sở hữu về tài sản) đều nhận thức được ngay tại thời điểm đó nhưng không thể ngăn chặn được. 

Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp và mục đích của người phạm tội là chiếm đoạt được tài sản.

Về mặt lỗi: Lỗi cố ý trực tiếp. Tuy không có chủ định, bàn bạc từ trước và việc phạm tội cũng hoàn toàn là do điều kiện khách quan mang lại nhưng lỗi mà H và Q thực hiện là lỗi cố ý chiếm đoạt tài sản đang có chủ sở hữu.

Về mặt mục đích phạm tội: Mục đích chiếm đoạt tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Khi trên đường về phát hiện ra chị B và những người bạn của chị do say rượu không biết gì đang nằm mê mệt bên lề đường và trên người chị B có đeo nhiều nữ trang bằng vàng có giá trị nên H và Q đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Sở dĩ H và Q dễ dàng chiếm đoạt tài sản của chị B là do chị say rượu không biết gì, mà việc chị B say rượu là do chị tự uống, không phải do H và Q ép buộc hay có mưu đồ trước mà chuốc rượu cho chị để chúng chiếm đoạt tài sản. 

Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt toàn bộ nữ trang bằng vàng của H và Q đã phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS. 

Chủ thể: chủ thể thường tức là chủ thể đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự (Điều 13 BLHS) và đạt độ tuổi luật quy định (Điều 12 BLHS).

C. Kết bài

Trong thực tế, nhiều vụ việc về xâm hại quan hệ tài sản diễn ra rất phức tạp, nếu không xác định rõ tính chất của vụ việc thì người xét xử có thể xét nhầm tội cho người phạm tội. Điều này đặt ra yêu cầu rằng người xét xử vừa phải có kiến thức chuyên môn và vừa phải có kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc. Vì bài tập có giới hạn nên em xin kết thúc vấn đề tại đây. Em mong thầy cô đóng góp ý kiến và giúp em hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự tập 2, Nxb. CAND, Hà Nội – 2010.
2. Bộ Luật Hình sự 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung ngày 19/06/2009).
3. Thông tư 02/2001/TANDTC- VKSNDTC- BCA- BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV: “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS 1999.
4. Bộ Tư pháp Viện Khoa học pháp lý – Từ điển luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Nxb. Tư pháp.

No comments:

Post a Comment