18/10/2014
Bài tập nhóm - Luật Hình sự - Bài tập tình huống
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

Hiếu và Hòa kết hôn đã được 15 năm. Hiếu thường xuyên uống rượu say thì về đập phá đồ đạc trong gia đình và đánh vợ rất dã man. Mỗi khi không lo được tiền cho chồng mua rượu, chị Hoa lại phải gánh chịu những lời lăng mạ tồi tệ cùng trận đòn quái ác của chồng. Có lần chưa hả dạ, Hiếu còn kéo chị Hoa ra đầu làng và làm nhục chị. Do quá uất ức và tủi nhục, chị Hoa đã nhảy sông để tự sát. Thấy vậy, Hiếu nhảy xuống nhảy xuống sông dìm đầu vợ xuống nước và nói: “Muốn chết tao cho chết luôn”. Mấy phút sau chị Hoa tắt thở.
1. Xác định tội danh của Hiếu (2 điểm)
2. Giả sử Hiếu không có hành vi dìm đầu vợ xuống nước thì tội danh của Hiếu là gì?(2 điểm)
3. Giả sử Hoa nhảy xuống sông tự sát nhưng được hàng xóm cứu, không chết thì TNHS của Hiếu được giải quyết như thế nào? (2 điểm)
4. Giả sử Hiếu vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích và đã có các hành vi nêu trên thì trường hợp phạm tội của Hiếu được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. (1 điểm)


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

1. Xác định tội danh của Hiếu? 
Hành vi của Hiếu trong trường hợp này đã cấu thành tội giết người có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điểm n Khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009

Dấu hiệu pháp lý

Khách thể của tội phạm trong vụ án này là quyền được sống, quyền tôn trọng và bảo vệ tính mạng của chị Hoa. Đó là một người đang sống, một người đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là con người – thực thể tự nhiên và xã hội.

Chủ thể của tội phạm trong vụ án này là Hiếu, Hiếu đã có hành động dìm đầu chị Hoa xuống nước làm mấy phút sau chị Hoa tắt thở. Hiếu là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đã đạt độ tuổi nhất định do Hiếu đã kết hôn được 15 năm

Mặt khách quan của tội phạm: 

- Mặt khách quan của tội giết người thể hiện ở hành vi tước đoạt quyền sống của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi tước đoạt tính mạng người khác được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Trong trường hợp này, Hiếu đã có hành động dìm đầu chị Hoa xuống nước- một hành vi nguy hiểm, có khả năng gây ra cái chết nhanh chóng cho nạn nhân. Thực tế cho thấy hậu quả chết người đã xảy ra khi chị Hoa tắt thở chỉ vài phút sau khi bị dìm xuống nước. Đối tượng của hành vi tước đoạt tính mạng chỉ có thể là con người còn đang sống, ở tình huống này chị Hoa là người còn đang sống, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe,…Vì vậy có thể khẳng định hành vi của Hiếu là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Cụ thể ở đây là chị Hoa vợ của Hiếu.

- Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm tội giết người là hậu quả chết người. Trong trường hợp này, hành vi của Hiếu đã gây ra hậu quả nghiêm trọng là cái chết của chị Hoa.

- Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người: Mặc dù chị Hoa có hành động tự tử nhưng hành vi dìm đầu chị Hoa xuống nước của Hiếu mới chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho chị Hoa. Điều này được thể hiện qua hậu quả là chỉ sau vài phút chị Hoa chết. Do vậy, hành vi của Hiếu và hậu quả chị Hoa chết có quan hệ nhân quả trực tiếp với nhau.

Mặt chủ quan của tội phạm

- Lỗi của Hiếu là lỗi cố ý trực tiếp

Về lý trí: Hiếu hoàn toàn có thể nhận thức rõ được tính chất nguy hiểm trong hành vi dìm đầu của chị Hoa xuống nước là có thể nhanh chóng gây ra cái chết cho nạn nhân và hậu quả là chị Hoa đã tắt thở sau vài phút.
Về ý chí: Hiếu cũng mong muốn hậu quả xảy ra, tức là muốn tước đoạt sinh mạng của chị Hoa, điều này được thể hiện qua câu nói: “Muốn chết tao cho chết luôn”. Ngoài ra qua hành vi của Hiếu khi nhìn thấy vợ mình tự tử là nhảy xuống cầu để dìm vợ qua đây ta thấy thái độ quyết liệt của Hiếu muốn gây ra cái chết của chị Hoa. 

Khoa học hình sự xác định: Giết người có tính chất côn đồ là trường hợp giết người mà tất cả những tình tiết của vụ án thể hiện người phạm tội có tính hung hãn cao độ, quá coi thường tính mạng của người khác; sẵn sàng giết người vì những nguyên cớ nhỏ nhặt.

Ở tình huống này, Hiếu thường xuyên uống rượu say rồi đối xử với với chị Hoa rất dã man, tàn bạo, làm nhục chị Hoa ở những nơi đông người Mỗi khi không lo được tiền cho chồng mua rượu, chị Hoa lại phải gánh chịu những lời lăng mạ tồi tệ cùng trận đòn quái ác của chồng. Khi chị Hoa quá uất ức nhảy xuống sông tự tử thì Hiếu không những không cứu giúp mà trái lại cũng nhảy xuống sông theo để dìm đầu vợ xuống nước và nói: “Muốn chết thì tao cho chết luôn”. Điều này cho thấy sự hung hãn cao độ trong cách hành xử của Hiếu, coi thường quá mức sinh mạng của chị Hoa khi giết người để thoả mãn cơn giận của mình. 

Như vậy, dựa trên những căn cứ và lý luận nói trên, có thể thấy rằng hành vi của Hiếu đã cấu thành nên tội giết người với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “có tính chất côn đồ” theo điểm n, khoản 1 Điều 93 BLHS.

2. Giả sử Hiếu không có hành vi dìm đầu vợ xuống nước thì tội danh của Hiếu là gì?
Theo giả định của bài Hiếu không thực hiện hành vi nhảy xuống sông và dìm đầu Hoa xuống nước tới chết, có hai trường hợp đặt ra: Nếu khi Hiếu thực hiện hành vi ngược đãi, đối xử tồi tệ đối với chị Hoa mà có chủ đích, mong muốn để Hoa tự sát thì trong trường hợp này Hiếu sẽ phạm tội giết người với thủ đoạn đặc biệt quy định tại điều 93 BLHS (Trang 400, Giáo trình Luật Hình sự Tập 1 -  trường ĐH Luật HN năm 2010). Tuy nhiên, do đề bài không nói rõ và ở đây chị Hoa và Hiếu có quan hệ vợ chồng với nhau, nên theo ý kiến của nhóm 2 (N09-TL2), trong trường hợp này Hiếu phạm tội bực tử quy định tại Khoản 1 Điều 100 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Khách thể bị xâm hại ở đây là tính mạng của chị Hoa. Tuy Hiếu không trực tiếp thực hiện hành vi tước đoạt sinh mạng của chị Hoa nhưng lý do dẫn đến hành vi tự sát của chị Hoa hoàn toàn xuất phát từ sự hành hạ, đánh đập, lăng mạ, làm nhục trong thời gian dài của Hiếu.

Chủ thể trong tội bức tử là những người có quan hệ lệ thuộc nhất định với nạn nhân.Trường hợp này, Hiếu có mối quan hệ lệ thuộc với chị Hoa về hôn nhân, gia đình và ở đây là quan hệ vợ chồng.

Mặt khách quan của tội phạm:

- Hành vi khách quan của Hiếu thể hiện ở chỗ Hiếu thường xuyên ngược đãi đối với chị Hoa, khi uống rượu say về thì đập phá đồ đạc trong gia đình và đánh vợ rất dã man. Mỗi khi không lo được tiền rượu cho chồng, chị Hoa lại phải gánh chịu những lời lăng mạ tồi tệ cùng những trận đòn quái ác của chồng. Có lần chưa hả dạ Hiếu còn kéo chị Hoa ra đầu làng  và làm nhục chị. Qua những hành vi kể trên, ta có thể thấy chị Hoa là nạn nhân của bạo hành gia đình. Chị là vợ và lệ thuộc vào người chồng là Hiếu. Nhưng Hiếu không yêu thương chị mà luôn có những hành động cũng như lời nói xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm của chị Hoa. Và những hành vi này không chỉ diễn ra một lần mà diễn ra nhiều lần, thường xuyên trong suốt một thời gian dài.

- Hậu quả của tội phạm ở trường hợp này: Do hành vi thường xuyên đối xử tàn ác của Hiếu mà chị Hoa đã có hành vi tự tức đoạt tính mạng của chính mình, đó là nhảy xuống sông tự sát.

- Quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và xử sự tự sát của nạn nhân là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Chính những hành vi thường xuyên đối xử tàn ác ngược đãi, làm nhục của Hiếu đối với chị Hoa làm cho bản thân chị Hoa rơi vào tình trạng đau khổ uất ức và tủi nhục, bị hành hạ cả về thể xác và tinh thần. Điều này đã thúc đẩy chị Hoa có hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính mình khi nhảy xuống sông để tự sát. Như vậy, hành vi của Hiếu chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra hành vi tự sát của chị Hoa.

Mặt chủ quan của tội phạm: Ở tội này lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý do quá tự tin.
Vấn đề lỗi trong trường hợp này không được rõ ràng vì vậy lỗi của Hiếu ở đây có thể là lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý do quá tự tin. Trong thời gian dài Hiếu đã có những hành vi đánh đập, mắng chửi, làm nhục chị Hoa cũng như phá tán tài sản gia đình bởi thói nghiện rượu của mình. Như vậy, khi thực hiện những hành vi nói trên, Hiếu hoàn toàn có khả năng nhận thức được rằng những hành vi đó có khả năng làm Hoa bị tổn hại nặng nề không những về thể xác mà còn cả về mặt tinh thần và rất có thể dẫn đến tự sát. Tuy nhiên, do Hiếu trong trường hợp này nếu Hiếu không có mong muốn cho hậu quả xảy ra mà chỉ có ý thức bỏ mặc chị Hoa tự sát, chấp nhận việc đó thì lỗi của Hiếu là lỗi cố ý gián tiếp, hoặc nếu Hiếu quá tự tin rằng mình có hành hạ, đánh đập chị Hoa đến đâu thì chị Hoa cũng không dám tự sát thì lỗi của Hiếu ở đây là lỗi vô ý do quá tự tin. 

3. Giả sử Hoa nhảy xuống sông tự sát nhưng được hàng xóm cứu, không chết thì TNHS của Hiếu được giải quyết như thế nào? 
Như đã nêu ở ý thứ 2, nếu Hiếu chủ đích thực hiện hành vi hành hạ dã man của mình để mong muốn và chủ đích làm chị Hoa tự sát thì lỗi của Hiếu là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng theo giả định của đề bài thì chị Hoa không chết vì nguyên nhân khách quan (hàng xóm cứu) bởi vậy Hiếu sẽ chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt.

Trường hợp tiếp theo, Hiếu “không có hành vi dìm đầu vợ xuống nước” tức là tình tiết của vụ án chỉ dừng lại ở chỗ chị Hoa nhảy xuống sông để tự sát  thì Hiếu được xác định là đã phạm tội bức tử được quy định tại Khoản 1 Điều 100 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và Hiếu phải chịu TNHS về tội phạm này. Vậy, nếu xét thêm giả thiết “Hoa nhảy xuống sông tự sát nhưng được hàng xóm cứu nên không chết” thì TNHS của Hiếu được giải quyết ra sao? Để giải đáp vấn đề này, chúng ta cần quan tâm phân tích về hậu quả của tội bức tử để xác định việc tự sát nhưng không chết của chị Hoa có làm thay đổi TNHS mà Hiếu phải chịu hay không.

Tội bức tử được quy định tại Điều 100 BLHS là tội có cấu thành vật chất, cho nên hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Cụ thể, hành vi khách quan của người phạm tội phải dẫn đến hậu quả là làm cho nạn nhân tự sát. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng hậu quả mà tội bức tử đòi hỏi người phạm tội gây ra chỉ là làm cho nạn nhân tự sát chứ không đòi hỏi nạn nhân chết. Tức là, chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là tội phạm đã hoàn thành và người phạm tội phải bị truy cứu TNHS đối với tội danh này. 

Xét cụ thể trong tình huống trên, do quá uất ức và tủi nhục bởi sự đối xử tàn ác và hành vi làm nhục của chồng mình là Hiếu mà chị Hoa đã nhảy sông tự sát. Sự tự sát của chị Hoa đã thỏa mãn đòi hỏi của tội bức tử về hậu quả của tội phạm. Việc tự sát đó có dẫn đến cái chết cho chị Hoa hay không không phải là dấu hiệu trong CTTP của tội bức tử, cũng không phải là tình tiết định khung tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS và do vậy không liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự của Hiếu trong trường hợp này. Như vậy, nếu chị Hoa tự sát nhưng được hàng xóm cứu nên không chết (hậu quả chết người không xảy ra) thì hành vi của Hiếu vẫn thỏa mãn các dấu hiệu của tội bức tử và Hiếu vẫn phải chịu TNHS về tội bức tử theo khoản 1 Điều 100 BLHS 1999.

4. Giả sử Hiếu vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích và đã có các hành vi nêu trên thì trường hợp phạm tội của Hiếu được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.

Để xem xét trường hợp nói trên, chúng ta cần hiểu thế nào là “tái phạm” và “tái phạm nguy hiểm” dựa 
trên quy định của Điều 49 BLHS:
“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý”.

Trong đó, án tích là khoảng thời gian nhất định buộc người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án phải phấn đấu tu dưỡng để được xóa bỏ mặc cảm lai lịch rằng mình đã can án 
    
Theo quy định của Điều 64 BLHS1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 
“Những người sau đây đương nhiên được xoá án tích:
1. Người được miễn hình phạt.
2. Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) Một năm trong trường hợp phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) Ba năm trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm”.  

Xét theo giả thiết của đề bài, Hiếu vừa chấp hành xong bản án 7 năm về tội cố ý gây thương tich nhưng ngay sau đó lại phạm tội như trường hợp nêu trên tức là Hiếu chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới. Ở đây, để được xoá án tích Hiếu cần phải có khoảng thời gian là 5 năm như quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 64 vừa nêu trên.     Theo Điều 49 BLHS và giả thiết, ta có 2 phương án định tội Hiếu như sau:

- Nếu bản án 7 năm tù của Hiếu là phạm tội theo khoản 2 điều 104 về tội cố ý gây thương tich (với mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù) thì đây là tội phạm nghiêm trọng theo quy định của khoản 3 Điều 8 BLHS. Ở đây Hiếu đã bị kết án, chưa được xóa án tích về tội cố ý gây thương tích mà lại phạm tội cố ý giết người nên trường hợp phạm tội của Hiếu là tái phạm theo quy định ở khoản 1 Điều 49. 

- Nếu bản án 7 năm tù của Hiếu được quy định theo khoản 3 điều 104 về tội cố ý gây thương tích (với mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù) thì theo khoản 3 Điều 8 đây là tội rất nghiêm trọng. Như vậy, Hiếu đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội giết người theo khoản 1 Điều 93 là tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Do đó, trường hợp này, trường hợp phạm tội của Hiếu là tái phạm nguy hiểm theo quy định ở khoản 2 Điều 49. 




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam Tập 1 – Trường Đại học Luật Hà Nội
NXB Công an nhân dân, Hà nội – 2010
2. Bộ Luật Hình Sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009
3. Bình luận khoa học BLHS Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
4. Mô hình luật hình sự Việt Nam – Nguyễn Ngọc Hòa 
NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội - 2010.

No comments:

Post a Comment