Luật Công chứng được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 đến nay đã và đang thực sự đi vào đời sống xã hội. Hiện nay, ngoài loại hình Phòng Công chứng (trước đây là Phòng Công chứng nhà nước), loại hình Văn phòng công chứng đang phát triển khá mạnh mẽ ở nhiều địa phương, nhất là ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố lớn. Hoạt động của các Văn phòng công chứng này giúp giảm thiểu sự quá tải tại các Phòng Công chứng Nhà nước trước đây, góp phần vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ xã hội khác, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tăng cường pháp chế XHCN.
Tuy nhiên, sau hơn 01 năm Luật Công chứng có hiệu lực, hoạt động của các Văn phòng Công chứng đã bộc lộ khá nhiều bất cập. Trong đó đáng kể là sự non kém về nghiệp vụ và kinh nghiệm của không ít Công chứng viên dẫn đến tình trạng ẩu, ký xác thực mà không đọc kỹ văn bản, không thẩm định, xác minh tài sản, nhân thân của người ký hợp đồng giao dịch. Kết quả là có nhiều bản bị cơ quan chức năng trả lại, không chấp thuận hoặc gây ra tranh chấp trong giao dịch hợp đồng. Hệ thống các tổ chức hành nghề công chứng thiếu sự liên kết thông qua mạng nội bộ để chia sẻ thông tin, không có cơ sở dữ liệu chung để kiểm soát thực trạng các hợp đồng... Do vậy, đã có trường hợp một căn nhà đem bán cho hai người, mang đi công chứng hợp đồng tại 2 tổ chức hành nghề công chứng khác nhau, một tài sản đem thế chấp, bảo lãnh ở nhiều người, nhiều nơi, người đã chết nhưng vẫn “giao dịch”, công chứng cho người có tài sản đã bị cưỡng chế, kê biên, bán đấu giá thành, ký kết hợp đồng bán đấu giá thành trước khi tổ chức bán đấu giá tài sản, công chứng hợp đồng có mục đích, nội dung vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, công chứng hợp đồng chuyển nhượng dựa trên hợp đồng uỷ quyền giả, công chứng hợp đồng giao dịch không đúng người yêu cầu công chứng (do công chứng viên chấp nhận giấy chứng minh nhân dân photo, do nhầm người, do chứng minh nhân dân giả...), công chứng hợp đồng cho người không đủ năng lực hành vi dân sự... gây hậu quả pháp lý rất nghiêm trọng. Ngoài ra, chưa kể tới chuyện thù lao tại các tổ chức hành nghề công chứng này, mỗi nơi quy định một kiểu, mạnh ai nấy thu. Thậm chí, gần đây còn xảy ra hiện tượng tranh chấp giữa những người góp vốn cùng Công chứng viên để mở Văn phòng công chứng khiến dư luận xã hội rất quan tâm… Do đó, có thể nói quản lý nhà nước về giai đoạn hiện nay phải cần được tăng cường hơn nữa, trong đó thanh tra với vai trò là một khâu thiết yếu trong quản lý hành chính nhà nước cũng cần phải được tăng cường. Thanh tra nhằm mục đích đưa hoạt động đạt được các mục tiêu mà Nhà nước đã đề ra. Qua thanh tra sẽ rà soát, đánh giá được thực trạng về tổ chức, hoạt động; nắm bắt được những bất cập, mâu thuẫn, khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ cũng như phát hiện được những vi phạm pháp luật trong hoạt động, từ đó có kết luận, kiến nghị cụ thể để cấp có thẩm quyền kịp thời xem xét, có biện pháp chấn chỉnh về tổ chức, hoạt động; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, giải quyết kịp thời những vướng mắc về nghiệp vụ, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, từng bước đưa công tác vào nề nếp.
Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng, đòi hỏi các ngành, các cấp phải phối hợp đồng bộ những cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp phải là lực lượng chủ công, nòng cốt và là chủ thể chính trong việc xử phạt vi phạm hành chính. Chuyên đề này nhằm “bắt tay, chỉ việc” cho Thanh tra viên Tư pháp thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Tác giả xin trình bày nội dung xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng để bạn đọc cùng tham khảo:
Phần I
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong hoạt động công chứng nói riêng là một trong những chế định quan trọng của pháp luật nhằm góp phần bảo đảm an toàn pháp lý trong hoạt động.
Tuy nhiên, trên thực tế việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Cho đến nay, các địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động tư pháp chưa nhiều; cơ quan thanh tra chuyên ngành tư pháp còn rất ít khi thực hiện thẩm quyền đó. Thực tiễn, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi vận dụng các quy định của pháp luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận lớn những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động còn chưa cao. Để góp phần đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn; đưa những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động vào thực tiễn đời sống xã hội, chuyên đề này sẽ đưa ra, thảo luận và phân tích một số nội dung cơ bản của việc xử phạt hành chính trong hoạt động công chứng như: cơ sở pháp lý, đối tượng xử phạt, nguyên tắc xử phạt, hành vi vi phạm hành chính và mức xử phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt cũng như cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực này.
1. Cơ sở pháp lý
Vào những năm đầu của thập kỷ 90, các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và các văn bản pháp luật có liên quan mới chỉ dừng lại ở mức quy định có tính chất định hướng cho việc xử phạt vi phạm hành chính. Thời điểm đó, chưa có quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể để tiến hành xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong hoạt động nói riêng. Sau khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) ra đời, thay thế Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995, Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh được ban hành và đặc biệt Nghị định số 76/2006/NĐ-CP và Nghị định số 60/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sau đây gọi tắt là Nghị định 76 và Nghị định 60) được ban hành đã cụ thể hoá các hành vi bị xử phạt trong lĩnh vực Tư pháp. Đây là văn bản tạo cơ sở pháp lý chi tiết, cụ thể nhất và trực tiếp nhất hiện nay cho việc tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động.
Ngoài ra, còn phải kể đến một loạt các văn bản quan trọng khác liên quan đến những quy định về xử phạt vi phạm hành chính như Luật Thanh tra năm 2004, Nghị định số 74/2006/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp; Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các văn bản có liên quan khác.
2. Đối tượng xử phạt
Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 Nghị định 60, đối tượng có thể bị xử phạt hành chính trong hoạt động là rất rộng, bao gồm các cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực mà không phải là tội phạm. Tuy nhiên, không phải bất cứ hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực công chứng của các cá nhân, tổ chức mà không phải là tội phạm đều là đối tượng bị xử phạt. Cần nhấn mạnh rằng hành vi vi phạm hành chính phải được pháp luật quy định. Cụ thể trong hoạt động công chứng, chỉ có những hành vi được quy định từ Điều 21 đến hết Điều 27 của Nghị định số 60/2009/NĐ-CP mới bị xem xét, xử phạt theo quy định của pháp luật.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cũng bị xử phạt theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên có quy định khác thì thực hiện theo điều ước quốc tế đó.
Một điểm quan trọng, cần lưu ý nữa là những hành vi vi phạm chế độ công vụ của cán bộ, công chức đang làm nhiệm vụ trong lĩnh vực công chứng, Thanh tra viên tư pháp và những cán bộ, công chức có liên quan khác trong khi thi hành nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực công chứng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và không bị xử phạt như các cá nhân, tổ chức đề cập ở trên.
3. Nguyên tắc xử phạt
Nguyên tắc 1, xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động trước hết phải tuân theo quy định tại khoản 1, Điều 3 của Pháp lệnh: "Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo quy định của pháp luật". Đây là quy định mang tính kế thừa của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995, thể hiện sự nhất quán trong chính sách xử lý hành chính của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay, đó là nguyên tắc chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh đối với mọi hành vi vi phạm hành chính, khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Theo đó, khi phát hiện vi phạm hành chính trong hoạt động, công việc đầu tiên mà người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện là đình chỉ ngay hành vi vi phạm hành chính đó.
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đồng thời cũng phải tuân theo các nguyên tắc quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 3 của Pháp lệnh và được cụ thể hoá tại Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP.
Nguyên tắc 2, cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
Đây là quy định tại khoản 1, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP. Theo đó, cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ. Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành để chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền không được quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức xử phạt.
Nguyên tắc 3, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần (khoản 2, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP). Nguyên tắc này đưa ra 03 trường hợp cụ thể sau đây:
- Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 8 Điều 9 của Pháp lệnh;
- Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh đối với hành vi đó;
- Trong trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm bị chuyển hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người đã quyết định xử phạt phải huỷ bỏ quyết định xử phạt; nếu chưa ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó.
Nguyên tắc 4, nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi đó và người có thẩm quyền xử phạt căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà ra quyết định xử phạt đối với từng người cùng thực hiện vi phạm hành chính (khoản 3, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP).
Nguyên tắc 5, một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh (khoản 4, Điều 3 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP).
4. Hành vi vi phạm và hình thức xử phạt
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này không phải là tội phạm, tức là chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó yếu tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm hành chính. Tương tự như hành vi phạm tội, hành vi vi phạm hành chính cũng là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước và thường là phạm vào các điều cấm của pháp luật, song tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính thấp hơn tội phạm. Đồng thời như đã trình bày ở trên, một trong những nguyên tắc cơ bản của xử lý vi phạm hành chính là hành vi vi phạm hành chính phải được pháp luật quy định, nói cách khác hành vi nào không được pháp luật về vi phạm hành chính quy định thì không bị coi là vi phạm hành chính.
Trong hoạt động công chứng, các hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt những hành vi vi phạm hành chính đó đã được quy định cụ thể tại Điều 17 đến Điều 21 của Nghị định số 60/2009/NĐ-CP. Theo quy định đó, hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng có áp dụng hình thức xử phạt tiền (thấp nhất là 500.000 đồng và cao nhất là 10.000.000 đồng), hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả.
5. Thẩm quyền xử phạt
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là một trong những vấn đề quan trọng của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói chung, pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng nói riêng. Đây là vấn đề có nội dung tương đối phức tạp và nhạy cảm, bởi nó trực tiếp liên quan đến sự phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước; đặc biệt trong bối cảnh hiện nay nó còn động chạm đến cái gọi là "quyền anh, quyền tôi" trong hoạt động chấp hành, điều hành, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, xử lý vi phạm.
"Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính" được hiểu là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật xử phạt vi phạm hành chính quy định trong việc áp dụng các hình thức xử phạt chính, bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, thì hiện có 74 chức danh có thẩm quyền xử phạt.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng hiện nay được quy định cụ thể từ Điều 45, 46, 48 của Nghị định 60/2009/NĐ-CP bao gồm: cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp, cơ quan công chứng, Uỷ ban nhân dân các cấp và người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ nhất, chủ thể giữ một vai trò quan trọng trong việc xử phạt các vi phạm hành chính trong hoạt động trước hết phải kể đến đó là cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp. Vì vậy, Nghị định 60 đã dành hẳn một Điều 46 quy định về thẩm quyền xử phạt của cơ quan này như sau:
“Điều 46. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp
1. Thanh tra viên chuyên ngành Tư pháp đang thi hành công vụ có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 500.000 đồng;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 2.000.000 đồng;
d) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.
2. Chánh thanh tra Sở Tư pháp có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 30.000.000 đồng;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thẩm quyền;
đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.
3. Chánh thanh tra Bộ Tư pháp có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến mức tối đa quy định tại Nghị định này;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thẩm quyền;
đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.”
Từ những quy định tại khoản 2 và 3 Điều này có thể thấy rằng trong cơ quan thanh tra chuyên ngành Tư pháp thì có 2 chức danh có thẩm quyền xử phạt mà không bắt buộc phải trực tiếp phát hiện hành vi vi phạm, đó là: Chánh Thanh tra có quyền áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm pháp luật khi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 60; Phó Chánh Thanh tra có quyền áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm pháp luật khi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 60 và được Chánh Thanh tra uỷ quyền.
Riêng đối với Thanh tra viên chuyên ngành Tư pháp, ngoài thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong khi thi hành công vụ như quy định tại khoản 1 Điều 46 Nghị định số 60 này thì Điều 21, Nghị định 74/2006/NĐ-CP còn quy định thẩm quyền của Thanh tra viên trong trường hợp khẩn cấp: "Trường hợp khẩn cấp cần ngăn chặn, xử lý ngay hành vi vi phạm, Thanh tra viên được áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời báo cáo ngay với Chánh Thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các biện pháp xử lý của mình.”.
Quy định trên có thể được hiểu là trong trường hợp khẩn cấp, Thanh tra viên Tư pháp có thẩm quyền xử phạt hoặc áp dung các biên pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật để xử lý các vi phạm hành chính. Mặc dù hiện nay chưa có quy định chi tiết nào về "trường hợp khẩn cấp", tuy nhiên theo chúng tôi "trường hợp khẩn cấp ở đây có thể được hiểu như sau:
- Thanh tra viên là thành viên Đoàn Thanh tra đang tiến hành thanh tra chuyên ngành theo Quyết định và kế hoạch thanh tra của người có thẩm quyền;
- Thanh tra viên được Chánh Thanh tra phân công độc lập tiến hành thanh tra chuyên ngành tại một cơ quan, tổ chức có hoạt động trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của ngành Tư pháp;
- Thanh tra viên đang thực hiện nhiệm vụ không có liên quan đến lĩnh vực có hành vi vi phạm hành chính nhưng phát hiện cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 60 thì có quyền xử phạt tại chỗ theo thẩm quyền, sau đó phải báo cáo ngay với Chánh Thanh tra;
- Thanh tra viên của Thanh tra Tư pháp khi tham gia Đoàn thanh tra liên ngành mà phát hiện cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 60;
- Trong trường hợp Thanh tra viên được Chánh Thanh tra phân công thực hiện nhiệm vụ không có liên quan đến lĩnh vực có hành vi vi phạm hành chính nhưng có tin báo khẩn cấp về việc cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 60 thì báo cáo Chánh Thanh tra và đến ngay hiện trường để xem xét, xác minh nguồn tin. Nếu xác định được hành vi vi phạm thì xử phạt theo thẩm quyền và báo cáo Chánh Thanh tra;
- Trường hợp Thanh tra viên đang giải quyết việc riêng mà phát hiện có hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 60 thì tiến hành lập biên bản tại chỗ và báo cáo ngay Chánh Thanh tra qua điện thoại để xin ý kiến chỉ đạo;
Thứ hai, một cơ quan có thẩm quyền chung cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đó là Ủy ban nhân dân các cấp được quy định tại Điều 45, Nghị định 60. Một trong những mục đích của quy định này là để xử phạt các trường hợp vượt quá thẩm quyền của cơ quan chuyên ngành, tránh trường hợp tồn đọng, chậm trễ trong việc giải quyết xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động.
Tuy nhiên, để hạn chế cái gọi là "quyền anh, quyền tôi" khi việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp nói chung, trong hoạt động nói riêng, Nghị đinh 60 đã quy định tại Điều 45 như sau:
“Điều 45. Thầm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 2.000.000 đồng;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 2.000.000 đồng;
d) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 30.000.000 đồng;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thẩm quyền;
đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến mức tối đa quy định tại Nghị định này;
c) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thẩm quyền;
đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Chương II Nghị định này.”.
6. Thủ tục xử phạt
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động phải tuân theo quy định tại Chương VI Pháp lệnh Xử lý vi phạm hanh chính năm 2002, Chương IV Nghị định 134/2003/NĐ-CP và Chương IV Nghị định 60. Theo đó, thủ tục xử phạt được chia làm 02 loại: thủ tục đơn giản và thủ tục lập biên bản. Ý nghĩa của việc chia thủ tục làm hai loại là ở chỗ: đối với việc đơn giản thì người có thẩm quyền xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay; cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền tại chỗ; vụ việc được giải quyết nhanh chóng, đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan nhà nước, công chức khi thi hành công vụ và cho cả cá nhân, tổ chức vi phạm.
6.1 Thủ tục đơn giản
Theo quy định tại Điều 54 Pháp lệnh, Điều 19 Nghị định 134 và khoản 1, Điều 43 Nghị định 60 thì thủ tục đơn giản là loại thủ tục được áp dụng trong trường hợp xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức xử phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 100.000 đồng và người có thẩm quyền xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay mà không phải lập biên bản. Nội dung quyết định xử phạt theo thủ tục đơn giản, ngắn gọn hơn so với thủ tục lập biên bản, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo những thông tin sau đây: họ, tên, địa chỉ của người vi phạm, hành vi vi phạm, địa điểm xảy ra vi phạm, điều, khoản, tên văn bản được áp dụng để xử phạt; ngày, tháng, năm ra quyết định, họ, tên, chức vụ người ra quyết định. Trong trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Ngưòi ra quyết định xử phạt phải giao cho nguời bi xử phạt quyết định xử phạt.
6.2 Thủ tục lập biên bản
Thủ tục xử phạt phải lập biên bản trong hoạt động được quy định trực tiếp tại khoản 3, Điều 42, Nghị định 60 Quy định này dẫn chiếu tới các quy định tại Điều 55 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Điều 20 của Nghị định 134. Từ những quy định này có thể khái quát thủ tục lập biên bản như sau:
Một là, khi phát hiện vi phạm hành chính trong hoạt động, người có thẩm quyền xử phạt phải ra lệnh bằng văn bản hoặc bằng miệng, yêu cầu đình chỉ ngay hành vi vi phạm, đồng thời lập biên bản về hành vi vi phạm. Biên bản phải có những nội dung chính sau đây: ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, địa chỉ người vi phạm; ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm, tang vật, phương tiện vi phạm (nếu có). Biên bản phải được lập làm 02 bản, có chữ ký của nguời lập biên bản, của cá nhân, tổ chức vi phạm, của người làm chứng (nếu có); nếu cá nhân, tổ chức vi phạm từ chối ký thì người có thẩm quyền xử phạt hoặc người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản. Trong trường hợp biên bản có nhiều tờ thì người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm phải ký vào từng tờ biên bản.
Hai là, xem xét, quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 56 Pháp lệnh và Điều 21 nghị định 134. Theo đó, đối với những vi phạm bình thường thì thời hạn để ra quyết định xử phạt là 10 ngày kể từ ngày lập biên bản, đối với những vụ việc phức tạp, thì thời hạn để ra quyết định xử phạt là 30 ngày; trong trường hợp cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ trươngr trực tiếp bằng văn bản để ra hạn. Việc gia hạn thêm phải bằng văn bản và thời gian ra hạn thêm là 30 ngày. Nội dung quyết định xử phạt phải tuân theo quy định tại khoản 3, Điều 56 Pháp lệnh, bao gồm: ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ người ra quyết định; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm hoặc tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm, điều khoản, tên văn bản được áp dụng, hình thức xử phạt chính và bổ sung, các biện pháp khắc phục hậu quả.
Đối với vụ vi phạm không thuộc thẩm quyền thì người lập biên bản chuyển biên bản đó cho người có thẩm quyền để quyết định xử phạt.
Ba là, thi hành quyết định xử phạt. Theo quy định tại Điều 64 của Pháp lệnh, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm phải thi hành quyết định xử phạt. Quá thời hạn quy định mà cá nhân, tổ chức không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành.
Hoãn thi hành quyết định xử phạt: Trong truờng hợp cá nhân vi phạm chưa thể thi hành quyết định xử phạt không phải do họ chây ỳ mà do chưa có điều kiện thi hành như đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế; đồng thời mức bị xử phạt tiền từ 500.000 đồng trở lên, thì có thể được tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt. Thời hạn tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt không quá 03 tháng kể từ khi có quyết định tạm hoãn. Người có thẩm quyền quyết định phạt tiền, có quyền quyết định tạm hoãn. Để được hoãn, cá nhân, tổ chức vi phạm phải làm đơn đề nghị có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan.
7. Một số lưu ý khác về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng
7.1 Tình tiết tăng năng, giảm nhẹ
Một trong những yêu cầu cơ bản của việc xử lý vi phạm hành chính là việc xử lý phải tương xứng với tính chất mức độ của hành vi vi phạm và nhân thân người vi phạm. Đó cũng chính là một trong những cơ sở cho việc ban hành các quy định về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trong xử lý vi phạm hành chính. Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trong xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động được quy định tại khoản 2, Điều 3, Nghị định số 60 và dẫn chiếu đến Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Điều 6 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP.
- Theo quy định tại Điều 8 Pháp lệnh, có bảy (07) tình tiết giảm nhẹ, bao gồm: (1) Người vi phạm hành chính đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại; (2) Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; (3) Vi phạm trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra; (4) Vi phạm do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần; (5) Người vi phạm là phụ nữ có thai, người già yếu, người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; (6) Vi phạm vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra; và (7) Vi phạm do trình độ lạc hậu.
- Theo quy định tại Điều 9 Pháp lệnh, có chín (09) tình tiết tăng năng, bao gồm: (1) Vi phạm có tổ chức; (2) Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực hoặc tái phạm trong cùng lĩnh vực; (3) Xúi giục, lôi kéo người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần vi phạm; (4) Vi phạm trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác; (5) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm; (6) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm; (7) Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính; (8) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó; và (9) Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính.
Cần phải lưu ý rằng, chỉ có chín tình tiết này mới là tình tiết tăng nặng, không ai có thể đặt ra bất cứ một tình tiết tăng nặng nào ngoài những tình tiết này để xử phạt nặng thêm cho công dân.
7.2 Thời hiệu xử phạt
Theo quy định tại khoản 1, Điều 4, Nghị định số 60, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong hoạt động nói riêng là một năm, kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện. Nếu quá thời hiệu nói trên mà vi phạm hành chính mới bị phát hiện thì không tiến hành xử phạt nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Nghị định này. Trong trường hợp quá thời hiệu xử phạt mà lỗi thuộc về người có thẩm quyền xử phạt thì người có thẩm quyền xử phạt bị xử lý theo quy định tại Điều 121 của Pháp lệnh như sau : "Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính mà sách nhiễu, dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng mức, xử lý vượt thẩm quyền quy định thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.".
Khoản 2, Điều 4, Nghị định số 60 cũng quy định "Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án thì bị xử phạt vi phạm hành chính nếu hành vi của người đó có dấu hiệu vi phạm hành chính; trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người đã ra quyết định phải gửi quyết định cho người có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp này, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm..".
Trong thời hạn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4, Nghị định số 60 này, nếu người vi phạm thực hiện vi phạm hành chính mới trong hoạt động hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu xử phạt như quy định ở trên mà thời hiệu xử phạt được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
Theo quy định tại Điều 6, Nghị định số 60 vấn đề "thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính" đã được quy định cụ thể. Theo đó, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động , nếu qua một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt (tức là kể từ ngày thực hiện xong các nghĩa vụ, yêu cầu ghi trong quyết định xử phạt hoặc từ ngày quyết định xử phạt được cưỡng chế thi hành) hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
7.3 Biện pháp đảm bảo cho hình thức xử phạt tiền
Tại khoản 3, Điều 57 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã quy định người lập biên bản vi phạm hành chính có thẩm quyền:
“Trong trường hợp chỉ áp dụng hình thức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức vi phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt có quyền tạm giữ giấy phép lưu hành phương tiện hoặc giấy phép lái xe hoặc giấy tờ cần thiết khác có liên quan cho đến khi cá nhân, tổ chức đó chấp hành xong quyết định xử phạt. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không có những giấy tờ nói trên, thì người có thẩm quyền xử phạt có thể tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm.”.
Theo đó, khi tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính có chế tài phạt tiền thì để đảm bảo cho việc thi hành quyết định xử phạt hành chính thì cán bộ lập biên bản có quyền tạm giữ 1 số giấy tờ có liên quan đến hoạt động của Công chứng viên như: thẻ Công chứng viên (nếu có), Quyết định bổ nhiệm Công chứng viên, Giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng…Việc tạm giữ phải được ghi chi tiết vào biên bản, tạm giữ giấy tờ gì, số hiệu văn bản, ngày tháng năm, trích yếu giấy tờ bị tạm giữ, mô tả đặc điểm giấy tờ bị tạm giữ…
7.4 Khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại, tố cáo về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động được quy định tại Chương V của nghị định 76 và dẫn chiếu đến quy định tại Điều 118 của Pháp lệnh. Theo đó, có thể hiểu rằng chủ thể khiếu nại về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng là cá nhân, tổ chức bị xử phạt; chủ thể thực hiện quyền tố cáo là mọi công dân. Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Nội dung này chúng tôi sẽ trình bày cụ thể, chi tiết tại chuyên đề "Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác công chứng".
Để phát hiện ra hành vi vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt đúng theo quy định của pháp luật thì người có thẩm quyền xử phạt phải nắm rõ nội dung nghiệp vụ công chứng, quy trình thanh tra chuyên ngành trên lĩnh vực công chứng. Tác giả xin trình bày cụ thể nội dung này ở phần II dưới đây để bạn đọc tham khảo. (Còn tiếp)
Theo Cổng thông tin điện tử Bộ tư pháp
No comments:
Post a Comment