Định Nghĩa: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy quy định tại Điều 195 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại các Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985.
Tuy nhiên, Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tới 4 hành vi phạm tội khác nhau, nên phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để định tội danh cho chính xác.
Nếu một người thực hiện cả 4 hành vi quy định trong điều luật và cùng một loại, một lượng tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì định tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý” và áp dụng một mức hình phạt theo điều khoản của Bộ luật hình sự mà người phạm tội bị áp dụng. Ví dụ: A chiếm đoạt được 100 gam Ê-phê-đrin đem cất giấu, khi tìm được người mua nên A đã vận chuyển số tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép trên đem tiêu thụ thì bị bắt. Trong trường hợp này tội danh của A là: “ chiếm đoạt, tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý” (tội danh đầy đủ).
Nếu một người chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi quy định tại điều luật thì chỉ định tội theo hành vi mà người đó thực hiện chứ không định tội danh đầy đủ như điều luật đã quy định. Ví dụ: Đỗ Trung Q là công nhân Nhà máy hoá chất Y đã chiếm đoạt 500 gam Axit-sun-phua-ric đem bán cho Nguyễn Mạnh C để C điều chế côcain. Trường hợp phạm tội này của Đỗ Trung Q là hành vi phạm tội “chiếm đoạt và mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”.
Nếu một người thực hiện nhiều hành vi nhưng các hành vi không liên quan với nhau, thì phải định tội theo từng hành vi và áp dụng mức hình phạt riêng cho từng hành vi phạm tội rồi tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Đinh Thị L chiếm đoạt 150 gam Axit-sun-phua-ric và vận chuyển trái phép 200 gam Axêtic-An-hy-dric. Hành vi phạm tội của Đinh Thị L là hành vi phạm tội “chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý” và tội “vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”. Toà án phải áp dụng hai hình phạt riêng biệt đối với từng tội và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt.
So với Điều 185g thì Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số sửa đổi sau:
Nếu Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có nhiều tình tiết quy đinh quy định tại khoản 2 điều này” (điểm b khoản 3) và “có nhiều tình tiết quy đinh quy định tại khoản 3 điều này”( điểm b khoản 4) thì Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt nữa;
Về mức hình phạt chính quy định ở từng khung hình phạt có một số thay đổi như:
Nếu khoản 1 Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt tiền là hình phạt chính thì khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ hình phạt tiền là hình phạt chính.
Về hình phạt bổ sung, cũng có những thay đổi như:
Nếu Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc bị tich thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; bị cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định từ hai năm đến năm năm” thì khoản 5 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu người từ đủ 16 tuổi trở lên sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội thì người dưới 16 tuổi vẫn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà người sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của Điều 195 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy là chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
Đối tượng tác động của tội phạm này là các tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma tuý. Các chất ma tuý được liệt kê trong bảng 4 danh mục các tiền chất và các chất hoá học tham gia vào quá trình chế tạo các chất ma tuý theo quy định của Công ước quốc tế 1961, 1971, 1988. Công ước này Việt Nam đã tham gia theo quyết định số 798-QĐ/CTN ngày 1-9-1997 của Chủ tịch Nước cộng hoà xã hội Việt Nam. Theo bảng 4 của Công ước trên gồm 22 tiền chất và các chất hoá học tham gia vào quá trình chế tạo chất ma tuý như: Ephedrine, Ergometrine, Ergotamine, Lysergic acid, Pseudoephedrine, Safrole, Acetic anhydride, Acetone, Hydrochloric acid.v.v... 32
Đối tượng tác động của tội phạm này được coi là dấu hiệu cơ bản để phân biệt với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.
3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan.
Có thể nói hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy cũng tương tự như hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tàng trữ trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là cất giữ bất hợp pháp tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý ở bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách... mà không nhằm mục đích mua bán hoặc vận chuyển từ nơi này đến nơi khác mà chỉ nhằm mục đích sản xuất trái phép chất ma tuý.
Hành vi vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma tuý từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác... bằng bất kỳ phương thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua bán mà chỉ nhằm mục đích dùng tiền chất đó vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
Hành vi mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là bán hay mua để bán lại; vận chuyển tiền chất để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại nhằm dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; hoặc dùng tiền chất để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy tiền chất.
Bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý cho người khác là dùng tiền chất mà mình có dưới bất kỳ hình thức nào như: mua được, xin được, nhặt được, người khác gửi hoặc chiếm đoạt được để bán cho người khác lấy tiền hoặc lấy tài sản.
Mua tiền chất nhằm bán lại trái phép cho người khác là dùng tiền hoặc tài sản để đổi lấy tiền chất và dùng tiền chất đó bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản. Chỉ khi nào xác định rõ mục đích của người phạm tội mua tiền chất đó là nhằm bán lại nhằm dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Việc xác định này, là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, căn cứ vào các tình tiết của vụ án.
Xin tiền chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là bằng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình tiền chất rồi dùng tiền chất đó đem bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản khác. Việc xin tiền chất ma tuý nhằm bán lại cho người khác trong thực tế xảy ra nhiều, vì người cho tiền chất thường bị người xin nói dối là sẽ dùng vào việc khác chứ không dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
Tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi cất giữ trái phép tiền chất sau đó đem bán tiền chất đó cho người khác.
Vận chuyển tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý để bán trái phép cho người khác cũng giống như hành vi vận chuyển trái phép tiền chất, chỉ khác hành vi vận chuyển trái phép tiền chất ở chỗ người phạm tội không chỉ vận chuyển mà còn bán tiền chất mà mình vận chuyển cho người khác.
Nếu không chứng minh được người phạm tội có mục đích bán tiền chất mà họ vận chuyển cho người khác thì chỉ định tội là “vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”, còn nếu chứng minh được người phạm tội có mục đích bán tiền chất mà họ vận chuyển trái phép thì định tội là “vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”.
Nếu biết người khác mua bán trái phép tiền chất mà vẫn tàng trữ, vận chuyển thì bị coi là hành vi giúp sức người mua bán và bị định tội là mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý với vai trò giúp sức.
Nếu hành vi vận chuyển tiền chất không trái phép và người vận chuyển tiền chất đó lại bán cho người khác một cách trái phép thì phải định tội là “chiếm đoạt, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”.
Cũng coi là hành vi mua bán trái phép tiền chất, nếu dùng tiền chất để trao đổi, để thanh toán trái phép hoặc dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán lấy tiền chất để bán lại trái phép cho người khác.
Khi xác định hành vi mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý cần chú ý một số vấn đề sau:
Tiền chất mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ thuộc vào nguồn gốc do đâu mà có; không phụ thuộc vào tiền chất đó là thật hay giả, tốt hay xấu.
Việc xác minh người phạm tội bán tiền chất cho người khác dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Trong trường hợp không chứng minh được hành vi bán trái phép tiền chất của họ, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý" hay tội "vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý" hoặc “tàng trữ, vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”...
Trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi mua bán trái phép tiền chất và kèm theo các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội là “tàng trữ, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”; “vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”; “chiếm đoạt, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý” hay tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chụyển, chiếm đoạt, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”.
Hành vi chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là hành vi cướp tiền chất, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tiền chất, cưỡng đoạt tiền chất, cướp giật tiền chất, công nhiên chiếm đoạt tiền chất, trộm cắp tiền chất, lừa đảo chiếm đoạt tiền chất, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền chất, tham ô tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
Hành vi chiếm đoạt tiền chất cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội phải có ý thức chiếm đoạt trước, trong khi thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt.
Nếu người phạm tội không có ý thức chiếm đoạt tiền chất hoặc không chứng minh được ý thức chiếm đoạt tiền chất mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau khi chiếm đoạt được tài sản mới biết trong tài sản còn có tiền chất nhưng người phạm tội vẫn cất giữ, vận chuyển hoặc mua bán thì không bị coi là hành vi chiếm đoạt tiền chất, mà tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội có tính chất chất chiếm đoạt (cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản...) và tội tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
Nếu ngay sau khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội mới biết trong tài sản có tiền chất và đem tiền chất đó nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không coi là hành vi chiếm đoạt tiền chất mà chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản.
Nếu mục đích ban đầu là chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, nhưng khi thực hiện hành vi chiếm đoạt thì lại không có tiền chất mà chỉ có tài sản thì người phạm tội vấn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma tuý.
Nếu người phạm tội không có mục đích rõ rệt là sẽ chiếm đoạt cái gì (cái gì cũng được) nhưng khi chiếm đoạt lại là tiền chất và dùng tiền chất đó vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma tuý. Nhưng nếu không dùng tiền chất đó vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì người phạm tội chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản.
b. Hậu quả
Hậu quả của các tội phạm về ma tuý nói chung và hậu quả của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý nói riêng không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Những thiệt hại do hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý gây ra cho xã hội chính là những thiệt hại phi vật chất ( chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý ). Riêng đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý còn gây ra hậu quả là có một hoặc một số chất ma tuý được sản xuất ra làm tăng số lượng chất ma tuý trong xã hội.
Trong một số trường hợp hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý còn gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh tương ứng với những thiệt hại mà người phạm tội gây ra. Ví dụ: Nguyễn Hoàng M vận chuyển trái phép 700 gam Axit sun-phua-ric, trong quá trình vận chuyển, do không cẩn thận nên đã để Axit làm bỏng nặng cháu Nguyễn Hoàng L con của M có tỷ lệ thương tật 50%. Ngoài tội vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, M còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về vô ý gây thương tích nặng cho người khác theo Điều 108 Bộ luật hình sự.
Số lượng tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất chất ma tuý mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt cũng được coi là hậu quả của tội phạm, nhưng hậu quả này chỉ là những thiệt hại gián tiếp cho xã hội và đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt, số lượng càng lớn thì thiệt hại cho xã hội càng nhiều và người phạm tội bị phạt càng nặng.
4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thực hiện hành vi phạm tội của mình do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý nhưng vẫn thực hiện. Như vậy, đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý chỉ có thể được thực hiện do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp. Tuy nhiên đối với hành vi chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì người phạm tội có thể thực hiện hành vi của mình do cố ý gián tiếp trong trường hợp người phạm tội không cần xác định đối tượng, tiền chất cũng chiếm đoạt mà tài sản khác cũng chiếm đoạt ( bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra, tiền chất cũng lấy mà tài sản khác cũng lấy).
Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, nếu không chứng minh được người phạm tội biết dùng tiền chất vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì không truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội “tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý” được mà tuỳ trường hợp cụ thể họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm sở hữu nếu hành vi của họ cấu thành các tội phạm đó.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt
Là trường hợp tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một đến sáu năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.
So với khoản 1 Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì quy định tại khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 195 không quy định hình phạt tiền là hình phạt chính nữa, nên không được áp dụng đối với hành vi phạm tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 195 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 185g có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính, nay hình phạt này không còn quy định nữa và theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự, thì điều luật xóa bỏ một hình phạt thì không được áp dụng đối với người phạm tội. Quan điểm này cũng có nhân tố hợp lý, nhưng nếu so sánh điều luật Bộ luật hình sự năm 1999 với điều luật Bộ luật hình sự năm 1985 thì phải coi Điều 195 là điều luật nặng hơn vì mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 185 g nhẹ hơn so với mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 195. Còn việc nhà làm luật xoá bỏ hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 1 Điều 195 chỉ là trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự. Nếu áp dụng khoản 1 Điều 185g đối với người phạm tội thì không được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, vì hình phạt này không còn quy định nữa.
Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt ( dưới hai năm tù), nhưng không được dưới ba tháng tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì cũng có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Tuy nhiên, việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng, vì tội phạm này là tội phạm nghiêm trọng. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, khi mà tệ nạn ma tuý đang là vấn đề nhức nhối cho xã hội thì việc cho người phạm tội hưởng án treo phải hết sức chặt chẽ.
2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 195 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác.
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
Ở nước ta, hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý ít xảy ra, nên cơ quan điều tra cũng ít phát hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý và thực tiễn xét xử chưa phát hiện trường hợp phạm tội nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, mà chỉ mới phát hiện được một vài trường hợp sản xuất trái phép chất ma tuý. Tuy nhiên, về lý thuyết thì không thể loại trừ hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, vì xã hội càng phát triển thì các tội phạm về ma tuý càng được thực hiện với quy mô lớn và tinh vi hơn. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này không phải là thừa.
Khi xác hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức, cần phân biệt với hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức, mà người có hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý chỉ là người đồng phạm của tội sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức. Vì tiền chất là một chất không thể thiếu để sản xuất ra chất ma tuý, nếu người phạm tội cùng với người sản xuất trái phép chất ma tuý tìm kiếm, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất để sản xuất trái phép chất ma tuý thì là đồng phạm tội sản xuất trái phép chất ma tuý.
Những người đồng phạm khác như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức cũng tương tự với trường hợp phạm tội có tổ chức khác33
Phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức có thể có tất cả những người đồng phạm, nhưng cũng có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành. Nhưng nhất định phải có người thực hành và người tổ chức, nếu thiếu một trong hai người này thì không thể có phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, nếu đã có người tổ chức, người thực hành nhưng người thực hành chưa thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì vẫn là phạm tội có tổ chức nhưng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
b. Phạm tội nhiều lần
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác.
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là đã có tất cả hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển, hai lần mua bán trái phép hoặc hai lần chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý trở lên mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; đồng thời trong số các lần tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu có hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý nhưng trong đó có một lần chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần.
Nếu có hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển, hai lần mua bán trái phép hoặc hai lần chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, trong đó đã có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì không coi là phạm tội nhiều lần, còn nếu có từ ba, bốn, năm... lần tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý trong đó có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì vẫn coi là phạm tội nhiều lần vì ít nhất cũng còn hai lần chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu người phạm tội có hai lần thực hiện hành vi phạm tội, nhưng mỗi lần thực hiện hành vi khác nhau thì không coi là phạm tội nhiều lần. Ví dụ: Một lần tàng trữ, một lần vận chuyển, một lần mua bán, một lần chiếm đoạt, tổng cộng là 4 lần phạm tội nhưng vì mỗi lần thực hiện một hành vi phạm tội khác nhau nên không coi là phạm tội nhiều lần, mà phải kết án riêng từng hành vi và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt như đã phân tích ở phần hành vi khách quan của tội phạm.
Nếu có hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển, hai lần mua bán trái phép hoặc hai lần chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, nhưng trong đó có một lần đã bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật, thì không coi là phạm tội nhiều lần.
c. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội khác.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của mình thì dù có chức vụ, quyền hạn thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này.
Thực tiễn xét xử cho thấy, ngoài việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn người phạm tội còn lợi dụng nghề nghiệp để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý như: Kỹ sư, bác sỹ, dược sỹ, hộ lý, y tá, điều chế viên, kỹ thuật viên... Tuy nhiên, nhà làm luật chỉ quy định lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nên đối với người lợi dụng nghề nghiệp để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì cũng bị coi là lợi dụng quyền hạn, vì nghề nghiệp của họ cũng cho phép họ những quyền hạn nhất định.
d. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như những trường hợp lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội khác.
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là trường hợp người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Thông thường, người phạm tội trong trường hợp này là thông qua các hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng trông giữ tài sản để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý sản. Người phạm tội lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức thường là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội không phải là người có chức vụ, quyền hạn mà chỉ lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
đ. Tiền chất có trọng lượng từ hai trăm gam đến dưới năm trăm gam
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp định lượng ma tuý để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khung hình phạt khác nhau. Việc xác định trường hợp phạm tội này không khó, chỉ cần xác định trọng lượng tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Trọng lượng tiền chất từ hai trăm gam đến dưới năm trăm gam là giới hạn để xác định người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật. Tuy nhiên, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý có tới 22 loại khác nhau, nhiều loại ở thể lỏng, nhưng điều luật chỉ quy định trọng lượng mà không quy định mililít, nên dù là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý dưới dạng gì thì cũng được xác định bằng gam. Do thực tiễn xét xử loại tội phạm này chưa nhiều, nên chưa thấy vướng mắc tòn việc xác định trọng lượng đối với tiền chất ở thể lỏng khác thể rắn. Tuy nhiên, quá trình phát triển và qua thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, nhất định nhà làm luật sẽ từng bước sửa đổi bổ sung cho phù hợp, có thể phải tách riêng trọng lượng tiền chất ở thể lỏng để quy định đơn vị đo lường bằng mililít như đối với các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.
e. Vận chuyển, mua bán qua biên giới
Vận chuyển, mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý qua biên giới là đưa tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma tuý từ nước này qua nước khác dưới bất kỳ hình thức nào.
Nhà làm luật chỉ quy định “qua biên giới” mà không giới hạn qua biên giới Việt Nam với các nước có biên giới với Việt Nam, do đó khi xác định trường hợp phạm tội này, ngoài hành vi vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma tuý qua biên giới Việt Nam với các nước có biên giới với Việt Nam thì còn bao gồm hành vi vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý từ nước một nước không phải là Việt Nam sang một nước thứ ba. Ví dụ: Vận chuyển từ Thái Lan sang Trung Quốc, từ My An Ma sang Phi Líp Pin v.v... Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý trong trường hợp này phải căn cứ vào Điều 6 Bộ luật hình sự về hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.34
điều luật không quy định nhằm qua biên giới nên tình tiết này không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội, do đó chỉ coi là vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý qua biên giới khi người phạm tội đã vận chuyển, mua bán ma tuý qua được biên giới. Nếu người phạm tội có mục đích đưa chất ma tuý qua biên giới nhưng vì lý do nào đó mà người phạm tội chưa đưa được ma tuý qua biên giới thì không coi là vận chuyển, mua bán ma tuý qua biên giới.
g) Tái phạm nguy hiểm.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm k khoản 2 Điều 193, điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự 35, chỉ khác ở chỗ người phạm tội tái phạm nguy hiểm trong trường hợp này là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, hoặc khoản 4 của Điều 195, hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 195 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với khoản 2 các Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 2 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn mà cũng không nặng hơn, nhưng vì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985, nên hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì không được áp dụng khoản 2 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 mà phải áp dụng khoản 2 Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội.
Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới sáu năm tù nhưng không được dưới một năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt mức cao của khung hình phạt (mười lăm năm tù).
3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 195 Bộ luật hình sự
Khoản 3 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là: Tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt từ năm trăm gam đến dưới một nghìn hai trăm gam.
Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 của điều luật, chỉ cần xác định trọng lượng tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý từ 500 gam đến dưới 1.200 gam là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 của điều luật.
Người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt từ năm trăm gam đến dưới một nghìn hai trăm gam tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm.
Khi áp dụng hình phạt cụ thể đối với người phạm tội, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới mười ba năm tù nhưng không được dưới sáu năm tù.
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt mức cao của khung hình phạt ( hai mươi năm tù).
Nếu các tình tiết khác như nhau thì trọng lượng tiền chất mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt càng nhiều, thì hình phạt càng nặng và ngược lại.
4. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 195 Bộ luật hình sự
Cũng như khoản 3 của điều luật, khoản 4 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là: Tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt từ một nghìn hai trăm gam trở lên.
Người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý từ một nghìn hai trăm gam trở lên, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Khi áp dụng hình phạt cụ thể đối với người phạm tội, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới hai mươi năm tù nhưng không được dưới mười ba năm tù.
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt tù chung thân.
Nếu các tình tiết khác như nhau thì tiền chất mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt càng nhiều, thì hình phạt càng nặng và ngược lại.
5. Hình phạt bỏ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
So với Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 5 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức phạt tiền quy định tại Điều 185(o) từ hai mươi triệu đến năm trăm triệu đồng; hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ hai năm đến năm năm; việc áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại Điều 185(o) là bắt buộc, còn khoản 5 Điều 195 việc áp dụng hình phạt bổ sung có thể áp dụng hoặc không áp dụng, Vì vậy, Toà án được áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 để áp dụng hình phạt bổ sung đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
---
Chú giải
32 Xem Bảng 4 Danh mục các chất ma tuý phần phụ lục
33 Xem sản xuất trái phép chát ma tuý có tổ chức và tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý có tổ chức.
34 Xem chú thích số 22
35 Xem nội dung phân tích điểm k khoản 2 Điều 193, điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.
No comments:
Post a Comment