21/08/2014
Giáo trình Luật Bình đẳng giới - Chương II - Sự phát triển của pháp luật bình đẳng giới
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRÊN THẾ GIỚI 


Với sự phát triển của phong trào phụ nữ và chủ nghĩa nữ quyền, phụ nữ ngày càng biết đấu tranh để tự tạo ra các cơ hội ngang bằng so với nam giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thứ nhất, làm thay đổi tư duy về phụ nữ: phong trào tranh đấu để tạo ra cơ hội có việc làm ngang nhau giữa phụ nữ và nam giới; vấn đề phúc lợi xã hội và sinh sản của phụ nữ đã được xã hội quan tâm hơn; vai trò sản xuất của phụ nữ hội nhập vào kinh tế quốc tế được đề cao; ảnh hưởng sâu sắc nhất của phong trào là đã làm thay đổi tư duy xã hội của các nhà chính trị, hoạch định chính sách, họ đã nhận thấy rằng mọi thành công của các chiến lược, chính sách phát triển không thể đạt được nếu không quan tâm đầy đủ đến phụ nữ… Thứ hai, phong trào phụ nữ trong phát triển đã làm hình thành dây chuyền của các cơ quan chuyên trách nghiên cứu về phụ nữ tại các nước đang phát triển trên thế giới, làm cho Chính phủ và các cơ quan phát triển tại các quốc gia quan tâm đúng mức việc đưa phụ nữ hội nhập vào quá trình phát triển cộng đồng. Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào phụ nữ và chủ nghĩa nữ quyền vào thập niên 70, các nước trên thế giới ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề phụ nữ, đây không chỉ là vấn đề của từng quốc gia hay từng khu vực mà là vấn đề có tính chất toàn cầu. Các cuộc hội nghị quốc tế về phụ nữ lần lượt diễn ra nhằm thông qua các chương trình, mục tiêu, cương lĩnh hoạt động toàn cầu nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, thực hiện vấn đề bình đẳng giới.


Những sự kiện quốc tế quan trọng:

- Năm 1975 : Hội nghị Phụ nữ Thế giới lần thứ nhất, họp tại Mêhicô - năm Quốc tế Phụ nữ đầu tiên.

- Năm 1976: Liên hợp quốc đề xướng “Thập kỷ về phụ nữ” (1976-1985).

- Năm 1979: Liên hợp quốc phê chuẩn Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (Công ước CEDAW).

- Năm 1980: Hội nghị phụ nữ thế giới lần thứ hai, họp tại Copenhagen (Đan Mạch).

- Năm 1985: Hội nghị phụ nữ lần thứ ba, họp tại Nairobi (Kenya) - Tổng kết đánh giá những thành công và tồn tại của “Thập kỷ về phụ nữ” của Liên hợp quốc - Đề ra mục tiêu “Bình đẳng, phát triển và hoà bình” (Chiến lược Nairobi).

- Năm 1995: Hội nghị phụ nữ thế giới lần thứ tư, họp tại Bắc Kinh (Trung Quốc)- Tổng kết đánh giá những thành công và tồn tại của chiến lược Nairobi, thông qua “Cương lĩnh hành động toàn cầu vì sự tiến bộ của phụ nữ” (Cương lĩnh Bắc Kinh).

- Năm 2000: Khoá họp đặc biệt lần thứ 23 của Đại hội đồng Liên hợp quốc tại Trụ sở Liên hợp quốc với chủ đề “ Phụ nữ năm 2000: Bình đẳng giới, Phát triển và Hoà bình cho thế kỷ 21” (gọi tắt là Hội nghị Bắc Kinh +5).

1. Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (Công ước CEDAW)

Ngày 18 tháng 12 năm 1979, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) đã được Liên hợp quốc phê chuẩn. Ngày 3 tháng 9 năm 1981, sau khi đã có 20 nước thông qua thực hiện, Công ước CEDAW bắt đầu có hiệu lực như một Hiệp ước quốc tế.

Công ước CEDAW là đỉnh cao sau hơn 30 năm đấu tranh của Uỷ ban về địa vị phụ nữ thuộc tổ chức Liên hợp quốc được thành lập từ năm 1946, có chức năng giám sát địa vị và nâng cao quyền lợi của phụ nữ trên thế giới.

Trong số các Công ước quốc tế về quyền con người, Công ước CEDAW chiếm một vị trí quan trọng trong việc đưa phân nửa nhân loại là phụ nữ tiến tới mục tiêu đấu tranh vì quyền con người, trong đó cơ bản là quyền bình đẳng giới.

Công ước CEDAW bao gồm Lời nói đầu và 30 Điều, được chia thành 5 Phần.

Lời nói đầu của Công ước CEDAW nêu lên cơ sở pháp lý, tính cấp thiết, ý nghĩa của Công ước đối với việc bảo đảm các quyền của phụ nữ, cũng như bảo toàn nền hoà bình, ổn định trên thế giới.

Phần 1 (từ Điều 1 đến Điều 6) trình bày khái niệm “Phân biệt đối xử đối với phụ nữ” và cam kết của các nước thành viên trong việc bảo đảm các quyền bình đẳng và cơ hội phát triển cho phụ nữ, cam kết của các nước thành viên về việc áp dụng và thực hiện các biện pháp thích hợp và cần thiết, các biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm thúc đẩy trong thực tế quyền bình đẳng nam, nữ.

Phần 2 (từ Điều 7 đến Điều 9) đề cập đến các quyền của phụ nữ trên lĩnh vực chính trị, như quyền bầu cử, quyền được đề cử; quyền tham gia vào việc hình thành và thực hiện chính sách của nhà nước cũng như giữ các chức vụ trong cơ quan nhà nước; quyền tham gia vào các tổ chức, hiệp hội trong nước và quốc tế; quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong vấn đề thay đổi hoặc giữ nguyên quốc tịch của mình cũng như trong vấn đề quốc tịch của con cái họ.

Phần 3 (từ Điều 10 đến Điều 14) đề cập đến các quyền của phụ nữ trên lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hoá. Về lĩnh vực giáo dục, Công ước đề cập đến quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong việc chọn nghề, hướng nghiệp, được vào học và có bằng cấp trong các loại trường ở nông thôn cũng như thành thị; quyền được học cùng một giáo trình, cùng thi cử, đội ngũ thầy giáo được xác định phẩm chất theo cùng một tiêu chuẩn như nhau, hưởng học bổng và các trợ cấp học đường khác…Trong lĩnh vực kinh tế, Công ước khuyến nghị các nước tham gia Công ước bảo đảm bình đẳng nam nữ về quyền làm việc, quyền có cơ hội việc làm như nhau, quyền tự do chọn nghề nghiệp và việc làm, quyền được trả lương ngang nhau, quyền bảo đảm xã hội, quyền bảo vệ sức khoẻ và an toàn lao động…Công ước còn đề cập đến các biện pháp cần thiết để loại trừ phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực y tế như chăm sóc sức khoẻ, trong các lĩnh vực khác và đặc biệt, Công ước đề cập riêng đến việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ nông thôn.

Phần 4 (từ Điều 15 đến Điều 16) đề cập đến các quyền của phụ nữ trên lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình như quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong việc ký kết hợp đồng, quản lý tài sản, trong thủ tục tố tụng trước Toà án, trong việc đi lại và lựa chọn nơi cư trú; bình đẳng giữa nam và nữ về quyền kết hôn, quyền chọn vợ, chọn chồng, bình đẳng về quyền và trách nhiệm trong quá trình hôn nhân và ly hôn, bình đẳng về quyền và trách nhiệm của cha mẹ trước con cái.

Phần 5 của Công ước CEDAW (từ Điều 17 đến Điều 30) trình bày vấn đề thi hành và hiệu lực của Công ước.

Việt nam ký Công ước CEDAW ngày 29/07/1980 và phê chuẩn Công ước ngày 19/03/1982, trở thành quốc gia sớm thứ 6 trên thế giới ký Công ước và quốc gia thứ 35 phê chuẩn Công ước này.

2. Tuyên bố và Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000 (Cương lĩnh Bắc Kinh, Trung Quốc)

Từ ngày 04/09/1995 đến ngày 15/09/1995, Hội nghị Phụ nữ quốc tế lần thứ IV của Liên hợp quốc đã được tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Tại Hội nghị, “Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000” đã được hội nghị nhất trí thông qua, nhằm mục tiêu đẩy mạnh sự tiến bộ và tạo quyền cho phụ nữ trên toàn thế giới. Cương lĩnh Bắc Kinh nêu rõ mục đích là bình đẳng giới, phát triển và hoà bình. Cương lĩnh đã xác định 12 lĩnh vực cấp thiết cần ưu tiên thực hiện vì sự tiến bộ và quyền năng của phụ nữ đồng thời đưa ra các mục tiêu và khuyến nghị cụ thể nhằm thúc đẩy việc thực hiện, như về vấn đề giảm nghèo đói, về các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, về sức khoẻ, nạn bạo lực, xung đột vũ trang, về lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực ra quyết định, về cơ chế tổ chức các bộ máy quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ, về vấn đề quyền con nguời, về lĩnh vực truyền thông, về môi trường về vấn đề trẻ em gái và vấn đề sắp xếp tổ chức và tài chính của các tổ chức quốc gia, khu vực và quốc tế.

Cương lĩnh Bắc Kinh xác định mục tiêu của cưong lĩnh hoàn toàn phù hợp với các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế, đó là nâng cao quyền năng cho mọi phụ nữ. Thực hiện đầy đủ nhân quyền và quyền tự do cơ bản của tất cả mọi phụ nữ là điều hết sức quan trọng trong việc nâng cao quyền năng cho phụ nữ. Nhiệm vụ của các quốc gia là thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và quyền tự do cơ bản, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế và văn hoá song cũng cần phải chú ý đến đặc điểm của từng quốc gia và khu vực, đến lịch sử văn hoá và tính ngưỡng. Cưong lĩnh Bắc Kinh được thực hiện thông qua luật pháp của quốc gia, qua xây dựng các chiến lược và chính sách, chương trình và các ưu tiên phát triển, trên tinh thần tự chủ của mỗi nước, phù hợp với các quyền tự do cơ bản của con người, hoàn toàn tôn trọng các giá trị tôn giáo và đạo đức, văn hoá và triết lý của từng cá nhân và cộng đồng nhằm giúp phụ nữ hưởng đầy đủ các quyền con người của họ và góp phần thực hiện bình đẳng giới, phát triển và hoà bình.

Cương lĩnh khuyến nghị các Chính phủ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các cơ quan chức năng tại các cấp triển khai thực hiện cương lĩnh bằng việc soạn thảo và thực thi các “Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ” phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước.

Tại Hội nghị Bắc Kinh, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam cũng đã công bố “Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000”.

3. Văn kiện “Phụ nữ năm 2000: Bình đẳng giới - Phát triển và hoà bình cho thế kỷ 21”

Từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 10 tháng 6 năm 2000, tại trụ sở Liên hợp quốc đã diễn ra khoá họp đặc biệt lần thứ 23 của Đại hội đồng Liên hợp quốc với chủ đề “ Phụ nữ năm 2000: Bình đẳng giới, Phát triển và Hoà bình cho thế kỷ 21” (gọi tắt là Văn kiện Bắc Kinh +5). Đây là khoá họp đặc biệt đầu tiên của Đại hội đồng Liên hợp quốc về vấn đề phụ nữ nhằm đánh giá tình hình thực hiện Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh và xác định các sáng kiến và hành động tiếp theo vì bình đẳng giới trong thế kỷ 21. Đây cùng chính là dịp để các Chính phủ một lần nữa tái khẳng định cam kết thực hiện đầy đủ các mục tiêu của Cương lĩnh hành động Bắc Kinh. “Những hành động và sáng kiến tiếp theo nhằm thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh”.

Văn kiện Bắc Kinh +5 gồm 2 văn kiện: “Tuyên bố chính trị” và “Những hành động và sáng kiến tiếp theo nhằm thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh”.

Trong “Tuyên bố chính trị”, những Chính phủ tham dự khoá họp đặc biệt đã tuyên bố khẳng định lại cam kết đối với những mục tiêu nêu trong Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Băc Kinh cũng như Chiến lược Nairobi, khẳng định lại cam kết đối với việc thực hiện 12 lĩnh vực cần quan tâm của Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, đồng thời các Chính phủ cũng thừa nhận là những người chịu trách nhiệm dầu tiên trong việc thực thi đầy đủ tất cả các cam kết về sự tiến bộ của phụ nữ, thừa nhận vai trò và sự đóng góp của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức phụ nữ trong việc thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh. Tuyên bố chính trị này cũng khẳng định bản thân nam giới phải tham gia và cùng chia sẻ trách nhiệm với phụ nữ để xúc tiến bình đẳng giới, khẳng định tầm quan trọng của việc lồng ghép quan điểm giới vào tiến trình thực hiện kết quả của các khoá họp và hội nghị thượng đỉnh quan trọng khác của Liên hợp quốc.

“Những hành động và sáng kiến tiếp theo nhằm thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh” bao gồm 4 phần.

Phần 1“Giới thiệu” đề cập tới việc các Chính phủ tái khẳng định sự cam kết của mình với các mục tiêu của Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh Bắc Kinh. Tuyên bố và Cương lĩnh Bắc Kinh đã đề ra mục tiêu “Bình đẳng giới, phát triển và hoà bình”, đồng thời cũng xác lập chương trình nghị sự để tăng cường quyền năng cho phụ nữ. Vì các mục tiêu và các cam kết này chưa được thực hiện đầy đủ nên các Chính phủ đã thống nhất cùng hành động để hiện thực hoá các mục tiêu này trong thế kỷ 21.

Phần 2 “Những thành tựu và trở ngại trong việc thực hiện 12 lĩnh vực quan tâm trong Cương lĩnh Bắc Kinh”. Căn cứ Báo cáo của Liên hợp quốc về tình hình thực hiện Cương lĩnh Bắc Kinh, văn kiện đã đề cập các thành tựu và trở ngại trong việc thực hiện 12 lĩnh vực quan tâm:

- Phụ nữ và nạn đói nghèo
- Giáo dục và đào tạo phụ nữ
- Phụ nữ và sức khoẻ
- Bạo lực chống lại phụ nữ
- Phụ nữ và xung đột vũ trang
- Phụ nữ và kinh tế
- Phụ nữ với quyền lực và qua trình ra quyết định
- Bộ máy quốc gia về phụ nữ
- Phụ nữ và truyền thông
- Phụ nữ và môi trường
- Trẻ em gái

Đánh giá kết quả thực hiện Cương lĩnh Bắc Kinh là cơ sở cho việc xác lập biện pháp triển khai tiếp tục thực hiện Cương lĩnh này.

Phần 3 “Những thách thức hiện tại tác động tới việc thực hiện đầy đủ Tuyên bố và Cương lĩnh Bắc Kinh”. Việc tổng kết và đánh giá thực hiện Cương lĩnh Bắc Kinh diễn ra trong bối cảnh thế giới đổi thay nhanh chóng và đang nổi lên những thách thức:

- Toàn cầu hoá là một thách thức mới, một mặt, mang lại nhiều cơ hội, mặt khác cũng tác động tới đời sống của phụ nữ một cách tích cực, làm tăng sự bất bình đẳng, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

- Sự khác biệt và bối cảnh kinh tế trong một quốc gia và giữa các quốc gia ngày càng tăng và sự bất ổn định về kinh tế đều tác động lớn tới đời sống của phụ nữ.

- Sự phát triển của khoa học và công nghệ: phụ nữ ít được tiếp cận và hưởng lợi.

- Làn sóng di cư lao động đã lôi cuốn phụ nữ cùng với những rủi ro về đời sống, sức khoẻ và các tệ nạn xã hội khác, trong đó có tệ buôn bán phụ nữ, bóc lột tình dục…

- Sự hợp tác giữa Chính phủ và các lực lượng xã hội vì mục tiêu bình đẳng giới.

- Đối tượng phụ nữ vị thành niên, phụ nữ cao tuổi và các vấn đề liên quan.

- Đại dịch HIV/AIDS và nạn nghiện hút.

- Hậu quả của thiên tai đối với phụ nữ và gia đình họ.

- Sự nhìn nhận chưa đầy đử về đóng góp của phụ nữ, đặc biệt là đối với công việc không được trả lương.

Phần 4 “Các sáng kiến và hành động tiếp theo để khắc phục các trở ngại và nhằm đạt tới sự triển khai thực hiện đầy đủ Cương lĩnh Bắc Kinh”. Phần này nêu rõ các khuyến nghị đối với các Chính phủ, cấp quốc gia và quốc tế theo 12 mục tiêu của Cương lĩnh Bắc Kinh.

Các giải pháp chính:

- Xác lập mục tiêu có thời hạn cho việc thu hút sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực quản lý và lãnh đạo.

- Có chính sách khắc phục sự khác biệt giới trong giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ.

- Bảo đảm cho phụ nữ được hưởng đầy đủ các quyền con người và quyền tự do cơ bản.

- Bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái trước mọi hành vi bạo lực về thể xác, tinh thần và tình dục.

- Có các biện pháp ngăn ngừa hiệu quả tiến tới xoá bỏ tệ buôn bán phụ nữ, trẻ emgái và tệ mại dâm.

- Thực hiện các biện pháp chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, trong đó có sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, kế hoạch hoá gia đình, bệnh nghề nghiệp.

- Kết hợp yếu tố giới vào các chính sách phát triển kinh tế-xã hội và các chương trình phát triển quốc gia.

- Thực hiện mọi biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo cho các đối tượng phụ nữ.

- Hỗ trợ và tạo việc làm cho phụ nữ.

- Củng cố và phát triển bộ máy hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực, ngân sách và tạo cơ chế để lồng ghép vấn đề giới vào mọi chính sách, chương trình, dự án.

- Cải tiến hệ thống thông tin, tuyên truyền, nghiên cứu và thu thập số liệu thống kê theo hướng nhạy cảm giới.

Một số chỉ tiêu và sáng kiến cụ thể:

- Xoá bỏ khoảng cách giới trong giáo dục tiểu học, trung học đến năm 2005. Thực hiện phổ cập miễn phí giáo dục tiểu học cho trẻ em trai và gái đến 2015.

- Giảm 50% người mù chữ trước năm 2015.

- Loại bỏ các điều khoản pháp luật mang tính phân biệt giới tính càng sớm càng tốt, tốt nhất trước 2005.

- Phê chuẩn Công ước CEDAW, loại bỏ các điều khoản bảo lưu, xem xét việc phê chuẩn Nghị định thư bổ sung.

- Bảo đảm điều kiện tiếp cận các mạng lưới chăm sóc sức khoẻ ban đầu, kể cả chăm sóc sức khoẻ tình dục và sinh sản trước 2015.

- Xem xét việc phát động chiến dịch quốc tế mang tên “Không khoan dung” để chống lại tệ bạo hành đối với phụ nữ.

II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

1. Giai đoạn từ 1945 đến 1954

Ở Việt Nam, mục tiêu bình đẳng nam, nữ (nam nữ bình quyền) đã được đưa ra từ “Chánh cương vắn tắt” của Đảng và Bác Hồ từ năm 1930. Năm 1945, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, chương trình bình đẳng nam nữ đã được đưa vào luật pháp, chính sách, chương trình hoạt động của Nhà nước một cách có hệ thống.

Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã thể hiện rõ cam kết của Đảng và Nhà nước đối với bình đẳng nam nữ. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, pháp luật quy định phụ nữ được hưởng các quyền ngang với nam giới: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”(Điều 6 Hiến pháp 1946) và “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9 Hiến pháp 1946).

Trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, đó là Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Trong Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950, vấn đề bình đẳng nam nữ trong gia đình được khẳng định “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” (Điều 5); “Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ” (Điều 6); “Người vị thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi, khi đã đến tuổi thành niên thì dù còn ở với cha mẹ, người con cũng có quyền tự lập” (Điều 7). Về vấn đề ly hôn, Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 cũng thể hiện sự bình đẳng nam nữ, như công nhận quyền tự do giá thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự phân biệt không bình đẳng về các duyên cớ ly hôn riêng cho vợ và chồng trong các Bộ dân luật cũ, đồng thời quy định duyên cớ ly hôn chung cho cả hai vợ chồng (Điều 2). Bên cạnh đó,  Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 cũng quy định điều khoản bảo vệ phụ nữ và thai nhi mà không bị xem là bất bình đẳng giới: “Trường hợp ly hôn mà người vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin Tòa án hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn” (Điều 5).

2. Giai đoạn từ 1954 đến 1975

Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miềm Nam vẫn tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn này, bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hiến pháp năm 1959, đã được Quốc hội khóa I kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 31/12/1959 và được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 01/01/1960. Điều 24 Hiến pháp năm 1959 đã quy định và ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Công việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn được hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển của các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ, nhà nuôi trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”.

Ngày 17/01/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Nhấn mạnh tầm quan trọng của Luật này đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Hồ Chủ tịch đã nói: “Luật lấy vợ lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phân nửa xã hội…Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng được một nửa loài người”. Các nguyên tắc chung về bình đẳng nam nữ, bình đẳng vợ chồng được quy định tại Điều 1, Điều 2 và Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Những Điều từ Điều 12 đến Điều 16 quy định bình đẳng giữa vợ và chồng về nghĩa vụ và quyền trong quan hệ hôn nhân.

3. Giai đoạn từ 1975 đến nay

Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước thống nhất cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bản Hiến pháp thứ ba năm 1980 đã được Quốc hội khóa VI kỳ họp thứ 7 chính thức thông qua, tiếp tục là nền tảng cho việc xây dựng các quy định pháp luật về bình đẳng giới. Đồng thời, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 12 thông qua ngày 29/12/1986 thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.

Ngày 18/12/1979 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) được Liên hợp quốc phê chuẩn. Gần một năm sau, ngày 29/7/1980 Việt Nam ký Công ước CEDAW và phê chuẩn Công ước và ngày 19/03/1982, trở thành quốc gia sớm thứ 6 trên thế giới ký Công ước và là quốc gia thứ 35 phê chuẩn Công ước này.

Triển khai thực hiện các quy định của Công ước CEDAW và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bình đẳng giới, các quyền của phụ nữ và các quy định về bình đẳng giới đã được thể hiện rõ trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Lao động năm 1994 được sửa đổi bổ sung năm 2002, Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000…

Tại Hội nghị phụ nữ quốc tế lần thứ IV của Liên hợp quốc tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc năm 1995, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố “ Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000”. Thực hiện tinh thần của Cương lĩnh Bắc Kinh, ngày 4/10/1997 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 822/TTg phê duyệt “Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000”. Từ đây vấn đề giới ở Việt Nam mới thực sự trở thành vấn đề quốc gia. Tại Hội nghị Bắc Kinh +5 năm 2000, khóa họp đặc biệt lần thứ 23 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, một lần nữa Việt Nam đã cam kết trước cộng đồng quốc tế nỗ lực và quyết tâm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.

Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010 và công bố Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 07/03/2003 của Chính phủ nhằm quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho Hội phụ nữ tham gia quản lý nhà nước về các vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em.

Thành tựu bình đẳng giới mà Việt Nam đã đạt được là việc Luật Bình đẳng giới đầu tiên đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007.

III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI

1. Sự cần thiết ban hành Luật Bình đẳng giới

Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tỷ lệ dân số nữ từ 10 tuổi trở lên biết chữ là 89,3% (nam giới 95%). Tỷ lệ nữ trong cơ quan dân cử nhiệm kỳ 2004-2009 cao hơn so với nhiệm kỳ trước, Việt  Nam tiếp tục dẫn đầu các nước trong khu vực Châu Á về tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội với 27,3%. Với những kết quả đạt được về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, Việt Nam được thế giới đánh giá cao tại Hội nghị kiểm điểm thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.

Tuy nhiên, theo Báo cáo năm 2003 về Phát triển con người của UNDP Việt Nam xếp thứ 89/144 nước xếp hạng về chỉ số  giới ( Trung Quốc 83, Thái Lan 61, Philipin 66, Singapo 28, Campuchia 105, Lao 109 ). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm vừa qua, chúng ta có thể đạt được kết quả lớn hơn về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại khoảng cách giới và sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Để khắc phục tình trạng này sớm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, việc ban hành Luật Bình đẳng giới là cần thiết, nhằm đạt các mục tiêu sau:

- Thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, quan điểm của Đảng về bình đẳng gới và sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX "Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tôt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". Nghị quyết số 23 NQ/TW ngày 12/03/2003 của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" nhấn mạnh quan điểm của Đảng về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ là "Tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về công tác phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới; khẩn trương cụ thể hóa chủ trương của Đảng  thành pháp luật, chính sách; lồng ghép giới trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các chương trình, kế hoạch chung.Coi trọng các chính sách xã hội, các chính sách về giới để giảm nhẹ lao động cho phụ nữ. Nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp".

- Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, khắc phục tình trạng quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ chưa được thực hiện nghiêm túc. Thứ nhất, việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới nhưng thực tế cho thấy nguyên tắc bình đẳng nam nữ không phân biệt đối xử giữa nam và nữ được quy định trong Hiến pháp 1992 chưa được cụ thể hóa toàn diện, triệt để và đồng bộ trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Một số văn bản xác định chủ thể chung chung "công dân", "người lao động"...được mặc nhiên hiểu là không phân biệt nam nữ trong các quan hệ xã hội được điều chỉnh. Một số văn bản quy phạm pháp luật quy định theo hướng "ưu tiên" cho lao động nữ nhưng chua tính đến việc tạo cơ hội để phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng, ví dụ: quy định lao động nữ nghỉ thai sản từ 4 - 6 tháng nhưng thời gian này không được coi là thời gian làm việc liên tục để tính các chế độ khen thưởng, nâng lương; lao động nữ nghỉ hưu trước nam giới 05 năm kéo theo các quy định làm hạn chế cơ hội đi đào tạo, đề bạt và cống hiến của họ cho sự phát triển của đất nước và gia đình. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chưa có các chế tài đủ mạnh để xử lý các vi phạm; thiếu các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện bình đẳng giới trong các lĩnh vực và các quy định bảo đảm lồng ghép giới trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, một số quy định về chính sách đối với khu vực không có quan hệ lao động, khu vực nông thôn chưa được quan tâm đầy đủ.  Thứ hai, việc thi hành pháp luật chưa được thực hiện nghiêm túc, cụ thể: tư tưởng định kiến giới, coi trọng nam giới hơn phụ nữ vẫn còn tồn tại ở các tầng lớp xã hội. Phụ nữ ít có cơ hội tham gia học tập nâng cao trình độ, tỷ lệ phụ nữ có học hàm học vị cao còn quá thấp so với nam giới (trong tổng số giáo sư, phó giáo sư của Việt Nam phụ nữ chỉ chiếm khoảng trên 5%). Tỷ lệ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo còn rất thấp. Tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử các cấp chỉ chiếm trên 20%. Nữ bộ trưởng và tương đương chỉ chiếm 12,5%. Cơ hội tuyển dụng và khả năng cạnh tranh của lao động nữ thấp hơn nam giới. Thu nhập của phụ nữ trung bình chỉ bằng 79% nam giới.

- Tiếp tục khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện  mục tiêu bình đẳng giới, hội nhập khu vực và quốc tế. Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng trong các văn kiện quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC), các Mục tiêu Thiên niên kỷ...Trên thế giới, đến nay đã có rất nhiều nước kể cả các nước phát triển và đang phát triển đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ như Úc, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phần Lan, Đan Mạch, Lào, Trung Quốc, Kosovo...Là thành viên các Công ước quốc tế về quyền con người, việc xây dựng Luật Bình đẳng giới không chỉ thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử nam nữ mà còn là câu trả lời đầy đủ nhất của Việt Nam trong việc thực hiện CEDAW.

2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Bình đẳng giới

Phạm vi điều chỉnh của Luật Bình đẳng giới là các quan hệ xã hội mà Luật Bình đẳng giới tác động đến. Luật Bình đẳng giới quy định các nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, đồng thời tập trung vào một số vấn đề mà pháp luật hiện hành chưa có quy định hoặc đã quy định nhưng chưa cụ thể, đó là các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, các nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới, các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong các lĩnh vực và việc xử lý hành vi vi phạm đó.

Về các nguyên tắc bình đẳng giới, Luật Bình đẳng giới đã chuyển hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới của CEDAW thành các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới của Việt Nam . Trong hệ thống pháp luật quốc gia, các quy định về bình đẳng nam nữ trong Hiến pháp có giá trị cao nhất, mọi văn bản khác không được trái với Hiến pháp. Đồng thời, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước CEDAW mà không bảo lưu điều khoản nào về nội dung. Như vậy, Nhà nước ta đã chính thức thừa nhận các nguyên tắc bình đẳng giới của CEDAW phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng nam nữ trong Hiến pháp. Việc Luật Bình đẳng giới chuyển hóa các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới của CEDAW thành các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới của Việt Nam đã bảo đảm tính hợp hiến của các nguyên tắc này.

Về các lĩnh vực bảo đảm bình đẳng giới, Công ước CEDAW đã đưa ra 11 lĩnh vực loại trừ phân biệt đối xử đối với phụ nữ, đó là các lĩnh vực: chính trị, đại diện quốc tế, quốc tịch, giáo dục, lao động việc làm, chăm sóc sức khoẻ, kinh tế, dân sự, phụ nữ ở nông thôn, hôn nhân và gia đình, bạo lực trên cơ sở giới tính. Đồng thời, sau khi xem xét báo cáo quốc gia về việc thực hiện CEDAW tại Việt Nam năm 2001, trong bản kết luận và khuyến nghị đối với Việt Nam, Ủy ban CEDAW của Liên hợp quốc đã ghi nhận "Ủy ban bày tỏ sự quan ngại về việc có khoảng cách đáng kể giữa nỗ lực của quốc gia nhằm đảm bảo bình đẳng nam nữ trên phương diện pháp lý với việc thụ hưởng sự bình đẳng trên thực tế, đặc biệt trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị" (1)(Kết luận và khuyến nghị của Ủy ban về quyền trẻ em và Ủy ban CEDAW của Liên hợp quốc, UNICEP). Các lĩnh vực cụ thể mà Ủy ban CEDAW cho rằng còn có khoảng cách giới lớn ở Việt Nam là chính trị, giáo dục, hôn nhân và bạo lực gia đình,chăm sóc sức khỏe sinh sản, kinh tế và lao động. Tiếp thu khuyến nghị trên, đồng thời nhằm nội luật hóa các quy định về các lĩnh vực bảo đảm bình đẳng giới của CEDAW, Luật Bình đẳng giới không quy định về bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực mà chỉ tập trung vào một số lĩnh vực (quy định 8 lĩnh vực) được xác định là còn có sự bất bình đẳng, sự phân biệt đối xử theo tinh thần Hiến pháp và Công ước CEDAW.

Về các nội dung bình đẳng giới trong từng lĩnh vực cụ thể, các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới, Luật Bình đẳng giới chỉ quy định các nội dung mới về bình đẳng giới mà các văn bản pháp luật chuyên ngành còn chưa quy định. Luật Bình đẳng giới cũng quy định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới chung áp dụng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (trước đây được quy định rải rác và chưa thống nhất trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên nghành khác nhau), còn các quy định cụ thể Luật Bình đẳng giới không quy định mà vẫn do các luật chuyên nghành điều chỉnh.

Về đối tượng áp dụng, Luật Bình đẳng giới được áp dụng đối với các chủ thể là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, dơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, gia đình và công dân Việt nam. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt nam, cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt nam cũng là đối tượng áp dụng Luật Bình đẳng giới.

3. Nội dung cơ bản của Luật Bình đẳng giới

Luật Bình đẳng giới gồm 44 Điều chia làm 6 Chương.

Chương I “Những quy định chung” từ Điều 1 đến Điều 10 quy định phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật, mục tiêu bình đẳng giới, giải thích từ ngữ, các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới, chính sách và nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới, cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới, các hành vi bị nghiêm cấm.

Chương II từ Điều 11 đến Điều 18 quy định về các lĩnh vực bình đẳng giới trong đời sống xã hội.

Chương III từ Điều 19 đến Điều 24 quy định về các biện pháp bao đảm bình đẳng giới.

Chương IV từ Điều 25 đến Điều 34 quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới.

Chương V từ Điều 35 đến Điều 42 quy định về thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.

Chương VI gồm Điều 43 và Điều 44 quy định về điều khoản thi hành.

Như vậy, hiện nay Luật Bình đẳng giới là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất sau Hiến pháp về vấn đề bình đẳng giới. Việc ban hành Luật Bình đẳng giới không chỉ thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử nam, nữ mà còn là câu trả lời đầy đủ nhất về các khuyến nghị của Ủy ban CEDAW với Việt Nam trong việc thực hiện CEDAW, đồng thời góp phần tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật và phát huy vai trò, khả năng của cả nam và nữ trong việc thực hiện mực tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 

No comments:

Post a Comment