Hỏi cung là một hoạt động quan trọng trong quá trình điều tra nói chung. Nó mang những đặc thù riêng biệt về cách thức, thủ tục, trình tự tiến hành... Việc thực hiện tốt công tác hỏi cung có ý nghĩa lớn trong việc chứng minh vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong thực tế vì rất nhiều lí do khách quan và lí do chủ quan mà dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can. Vì vậy, để làm rõ vấn đề này em xin lựa chọn đề tài “Thực trạng của việc vi phạm pháp luật trong việc hỏi cung bị can và các giải pháp hoàn thiện”
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can
1. Hỏi cung bị can
- Khái niệm
Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra được tiến hành nhằm thu thập lời khai của bị can về các tình tiết có liên quan đến vụ án, phục vụ công tác điều tra và xử lý đối với vụ án đó.
- Đặc điểm
Hỏi cung bị can là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng trong quá trình điều tra các vụ án hình sự. Biện pháp điều tra này được khắc họa bởi 3 tính chất đặc trưng sau:
+ Tính phổ biến: được áp dụng đối với mọi vụ án hình sự, với mọi tọi phạm trong giai đoạn điều tra vụ án
+ Tính phức tạp cao: xuất phát từ đặc điểm nhân thân của các bị can, hành vi mà các bị can thực hiện trên thực tế là rất đa dạng. Mặt khác, trong quá trình hỏi cung, tâm lí hỏi cung của bị can và điều tra viên là hoàn toàn trái ngược nhau, hai bên cùng tham gia vào cùng một hoạt động nhưng lại hướng tới hai mục đích khác nhau, một bên thì muốn tìm ra sự thật vụ án, một bên lại muốn trốn tội hoặc được giảm nhẹ tội.
+ Tính hiệu quả: thông qua hoạt động hỏi cung bị can điều tra viên có thể tìm ra chứng cứ, làm rõ hành vi phạm tội hoặc làm rõ tội phạm khác, hoạt động của các băng nhóm khác trên địa bàn. Ngoài ra thông qua hoạt động hỏi cung bị can còn có thể giáo dục, cảm hóa bị can, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thi hành án sau này.
Thực chất hỏi cung bị can là cuộc đấu tranh về ý chí và lý trí giữa điều tra viên và bị can. Do đó, để hoạt động này đạt hiệu quả cao, đòi hỏi điều tra viên phải có trình độ văn hóa pháp luật, nghiệp vụ cao, có kiến thức sâu rộng về xã hội, tâm lý, có kinh nghiệp dày dạn trong công tác hỏi cung và luôn xác định rõ nhiệm vụ, mục đích của cuộc hỏi cung, những biện pháp, phương tiện cần sử dụng để đạt được mục đích đặt ra.
2. Vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu các văn bản pháp luật về vấn đề vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can, nhận thấy không có một văn bản pháp luật cụ thể nào định nghĩa về cụm từ “vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can”. Chính vì vậy, dựa vào khái niệm vi phạm pháp luật trong Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật, trường Đại học Luật Hà Nội để đưa ra ý hiểu khái quát nhất về vấn đề vi phạm pháp luât trong hỏi cung bị can.
Theo đó, ta có thể hiểu vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can là hành vi trái pháp luật hình sự, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ được pháp luật bảo vệ.
Những dấu hiện cơ bản của vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can:
- Dấu hiệu hành vi:
Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người, pháp luật không thể điều chỉnh được suy nghĩ, tình cảm, ý chí…hay nói chung là những gì diễn ra trong đầu óc, mà chưa được biểu hiện bằng hành vi của con người. Cụ thể trong trường hợp này có thể xác định được một số hành vi như cưỡng cung, bức cung hay dùng nhục hình trong hỏi cung bị can…
- Dấu hiệu trái pháp luật:
Pháp luật đưa ra những quy định là để điều chỉnh và giới hạn những hành vi của con người ở một mức độ nhất định nào đó. Cụ thể, pháp luật Hình sự quy định trong BLTTHS 2003 và một số văn bản pháp luật khác có đưa ra những quy định cụ thể điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào quá trình điều tra vụ án cụ thể là hỏi cung. Đưa ra những chế tài xử lý khi có vi phạm xảy ra để bảo vệ quan hệ pháp luật hình sự.
- Dấu hiệu chủ thể
Trong trường hợp này, chủ thể đều là những cá nhân có năng lực hành vi dân sự và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, nên dấu hiệu này được đảm bảo thực hiện. Ví dụ như chủ thể của vi pháp phạm luật trong hỏi cung bị can có thể là điều tra viên hoặc chính bị can…
- Dấu hiệu lỗi
Trước khi thực hiện hành vi vi phạm, chủ thể của vi phạm biết là có lỗi, có thể gay ra những hậu quả xấu, trái với đạo đức, xã hội, lẽ phải mà vẫn cố tình thực hiện hành vi đó.
Tóm lại các dấu hiệu trên đây là cơ sở để nhận diện vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can
II. Thực trạng của việc vi phạm pháp luật trong việc hỏi cung bị can
1. Vi phạm nguyên tắc nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật trong hỏi cung bị can
Điều tra viên vi phạm pháp luật quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục triệu tập bị can, trình tự tiến hành hỏi cung bị can và việc lập biên bản hỏi cung bị can (các Điều 129, 130, 131, 132 Bộ luật tố tụng hình sự) và vi phạm nhiều quy định khác của pháp luật.
1.1. Vi phạm về trình tự tiến hành hỏi cung bị can
Khi đã đến buồng hỏi cung, Điều tra viên tiến hành việc nhận dạng, kiểm tra căn cước của bị can nếu xét thấy cần thiết. Sau đó Điều tra viên tự giới thiệu về mình và tuyên bố cho bị can mục đích của việc hỏi cung. Điều 131 khoản 1 quy định: “Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này. Việc này phải được ghi vào biên bản. Nếu vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can tự viết lời khai của mình.”( khoản 1 Điều 131 Bộ luật TTHS). Quy định này nhằm tránh sự thông cung giữa các bị can để khai báo sai sự thật. Vì vậy điều tra viên phải sắp xếp thời gian triệu tập bị can để hỏi cung riêng, nếu vụ án do nhiều Điều tra viên tiến hành và cần hỏi nhiều bị can cùng một thời điểm thì phải bố trí các địa điểm hỏi cung riêng để bị can không được tiếp xúc với nhau.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi hỏi cung bị can, người tiến hành tố tụng đã không giải thích hoặc giải thích không đầy đủ quyền và nghĩa vụ cho bị can, để bị can tiếp xúc với nhau dẫn đến tình trạng bị can không xác định đúng đắn trách nhiệm phải khai báo với Cơ quan tiến hành tố tụng, các bị can thông cung với nhau, che dấu hành vi phạm tội của nhau hoặc đổ vấy cho nhau. Khi không biết chính xác quyền và nghĩa vụ của mình, bị can có thể có cảm giác lo sợ, không yên tâm, có thể dẩn tới khai báo sai, không biết mời luật sư…như vậy quyền lợi của bị can trong trường hợp này sẽ không được đảm bảo và có thể dẫn tới việc oan sai…
1.2. Việc lập biên bản hỏi cung bị can
Khi kết thúc hỏi cung, Điều tra viên cần hoàn chỉnh biên bản hỏi cung. Điều 132 Bộ luật TTHS quy định: “Biên bản hỏi cung bị can phải được lập theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật này”. Điều tra viên phải lập biên bản mỗi lần hỏi cung, biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Trong trường hợp người bào chữa được hỏi cung bị can thì biên bản cũng phải ghi đầy đủ câu hỏi của người bào chữa và câu trả lời của bị can.
Khi lập biên bản, Điều tra viên nghe lời khai sau đó đưa ra những câu hỏi để bị can làm rõ và ghi vào biên bản. Biên bản hỏi cung không được tẩy xóa, sửa chữa, ghi thêm mà không được bị can xác nhận. Biên bản hỏi cung có thể được lập dưới dạng viết tay hoặc đánh máy.
Khoản 2 Điều 132 quy định: “nếu việc hỏi cung được ghi âm thì sau khi hỏi cung, phải phát lại để bị can và Điều tra viên cùng nghe. Biên bản phải ghi lại nội dung việc hỏi cung, bị can và Điều tra viên cùng ký xác nhận”.
Biên bản hỏi cung là một nguồn chứng cứ quan trọng trong quá trình chứng minh (theo Điều 64 khoản 2), song nhiều biên bản hỏi cung ghi không đầy đủ những nội dung theo mẫu quy định, có nội dung ghi trong biên bản hỏi cung bị tẩy xóa, thiếu chữ ký xác nhận của bị can, có biên bản hỏi cung, bị can chỉ ký ở trang cuối, các trang khác lại không ký, do vậy biên bản hỏi cung không đảm bảo tính pháp lý, không đảm bảo đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ như tính khách quan, tính có liên quan và tính hợp pháp.
Điều tra viên phải giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ trước khi tiến hành hỏi cung. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện vẫn trong trường hợp này vẫn còn vi phạm, cụ thể trên báo tiền phong có độc giả thắc mắc như sau: bạn Phạm Thu Thủy ở địa chỉ mail: phamhai67@gmail.com) hỏi:
“Cháu tôi năm nay 15 tuổi, bị cơ quan có thẩm quyền ở địa phương bắt giữ vì làm một việc vi phạm pháp luật, sau đó được những người có thẩm quyền lấy lời khai. Nhận được thông báo, tôi lên nơi cháu tôi bị bắt giữ thì được nhận một biên bản ghi lời khai của cháu và được yêu cầu ký vào. Tôi không ký thì các anh lấy lời khai bảo là tôi không hợp tác, nhưng tôi có chứng kiến cháu tôi khai thế nào đâu mà bảo tôi là người tham gia chứng kiến lấy lời khai. Tôi không biết phải ứng xử thế nào?”
Như vậy, theo quy định tại Khoản 2, Điều 306, Bộ Luật Tố tụng Hình sự trường hợp kể trên, khi người có thẩm quyền lấy lời khai, buộc phải có sự tham gia của đại diện gia đình. Người có thẩm quyền lấy lời khai cũng phải thông báo quyền và nghĩa vụ của cháu trước khi thực hiện lấy lời khai. Mọi quá trình thu thập chứng cứ không đúng quy định của pháp luật đều được xem như không có giá trị chứng minh. Vì vậy nếu thực sự bạn Phạm Thu Thủy không được tham gia vào việc lấy lời khai của cháu thì đương nhiên không có nghĩa vụ phải ký vào biên bản đó.
Theo đó ta có thể thấy vi phạm trong hỏi cung bị can xảy ra cả trong trường hợp bị can là người chưa thành niên, trong quá trình hỏi cung bị can không có sự chứng kiến của gia đình nhưng sau đó lại gọi gia đình bị can đến kí vào biên bản, như vậy là vi phạm pháp luật.
1.3. Không đảo đảm và tôn trọng các quyền hạn tố tụng của bị can
Trong một số trường hợp, Điều tra viên không bảo đảm và tôn trọng các quyền hạn tố tụng của bị can được quy định tại Điều 49 BLTTHS, làm tắt, đến phòng hỏi cung là hỏi luôn, không đọc quyết định khởi tố bị can trước khi hỏi cung bị can. Như vậy cũng được coi là hành vi vi phạm thủ tục tố tụng cũng như vi phạm thủ tục trong hỏi cung bị can. Bị can có quyền mời người khác bào chữa, tuy nhiên, việc người bào chữa gặp bị can trong giai đoạn điều tra bắt buộc phải có Điều tra viên, nên khi luật sư đề nghị được gặp bị can thì thông thường là lần đầu không được đáp ứng, các lần hẹn sau cũng không chắc chắn gặp được vì Điều tra viên lấy lý do bận công việc đột xuất. Chính vì vậy, luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra thường chỉ mang tính hình thức, không giúp ích gì nhiều được cho bị can.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 131 BLTTHS 2003 thì không được hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được và phải gi rõ lý do vào biên bản. Tuy nhiên, trên thực tế, vì lý do bị can không chịu khai báo nên điều tra viên hỏi cung liên tục cả ban ngày và ban đêm tạo áp lực khiến cho bị can có tâm lí lo sợ, căng thẳng, và muốn tự sát vì bị hỏi quá nhiều dấn đến rối loạn tâm lý.
1.4. Áp dụng những biện pháp thu thập lời khai trái pháp luật
Trong tất cả các hành vi vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can, có lẽ vi phạm áp dung những biện pháp thu thập lời khai trái pháp luật là vi phạm chiếm đa số và phổ biến nhất.
Trong việc hỏi cung bị can, nghiêm cấm việc áp dụng những biện pháp thu thập lời khai của bị can trái pháp luật như:
+ Mớm cung: là lối hỏi cung trong đó người hỏi cung bằng cách này hay cách khác để lộ cho bị can biết được nội dung sự việc cần hỏi để bị can khai theo, trong khi đó những sự việc đó chỉ là suy luận, phán đoán chủ quan của cán bộ hỏi cung chứ chưa có căn cứ khẳng định chính xác.
+ Bức cung: hành vi của Cán bộ hỏi cung đã sử dụng những thủ đoạn khác nhau như đe dọa, khống chế, thúc ép hoặc dùng lời lẽ ngụy biện để cưỡng ép bị can phải khai sai những điều mà họ biết. Cán bộ hỏi cung vi phạm thì tùy theo mức độ nặng nhẹ mà bị xử lý theo Điều 299 BLHS năm 1999
+ Dụ cung: là lối hỏi cung bằng lời lẽ hoặc hành động nhẹ nhàng, khôn khéo để dụ dỗ, lừa phỉnh, hứa hẹn vô nguyên tắc để mua chuộc bị can khai theo ý chủ quan của Cán bộ hỏi cung.
+ Dùng nhục hình: làm bị can đau đớn về thể xác bằng cách đánh đập, tra tấn bị can, không cho ăn uống, bắt bị can đứng phơi nắng, cùm xích chân tay bị can... hoặc tác động vào tâm lí làm cho bị can không thể chịu nổi mà phải khai nhận hoặc khai báo theo ý chủ quan của Cán bộ hỏi cung. Người có thẩm quyền mà dùng nhục hình trong hỏi cung thì phải chịu trách nhiệm theo Điều 298 BLHS.
Nhiều vụ cảnh sát dùng nhục hình với nghi phạm đã xảy ra. Hành vi này của người cảnh sát là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới sức khỏe, danh dự của công dân, gây mất niềm tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo ra bức xúc trong dư luận xã hội. Và các hành vi này được đăng tải phổ biến trên các trang mạng xã hội, báo điện tử…gây mất niềm tin của nhân dân vào cơ quan điều tra.
Có thể lấy một vài vụ trên thực tế sau:
• Hai cảnh sát dùng nhục hình với Osin được đăng trên báo dân trí
Bị chủ nhà nghi ngờ ăn cắp tiền, một osin ở Nha Trang đã bị các điều tra viên đánh đập trong quá trình lấy lời khai. Chiều 9/1/2012, TAND tỉnh Khánh Hòa đã tuyên phạt hai bị cáo nguyên là điều tra viên của Công an TP. Nha Trang mỗi bị cáo 9 tháng tù treo về tội dùng nhục hình. Đồng thời, HĐXX còn buộc hai bị cáo phải bồi thường cho người bị hại 3 triệu đồng.
Hai bị cáo gồm Trần Bá Tuấn (SN 1976, trú 205, Chung cư A, Nha Trang) và Nguyễn Đình Quyết (SN 1984, trú 186/22/7 Lê Hồng Phong, Nha Trang). Nạn nhân bị dùng nhục hình là bà Trần Thị Lan (SN 1970, ở xã Suối Hiệp, huyện Diên Khánh) tạm trú tại số nhà 229/11 đường 2-4, Nha Trang và đang giúp việc cho gia đình anh Võ Hà Trang (ở 9B Lãn Ông, Nha Trang).
Trước đó, ngày 28/11/2010, anh Trang đến Công an TP. Nha Trang trình báo về việc gia đình anh bị mất trộm 7 triệu đồng và 1.750 USD và nghi ngờ bà Lan lấy trộm. Sau đó bà Lan bị đưa đến tầng 2 trụ sở CATP. Nha Trang để lấy lời khai.
Trong khoảng thời gian từ trưa ngày 28/11 đến 17h ngày 29/12/2010, Tuấn và Quyết đã dùng công cụ hỗ trợ là gậy cao su, dùi cui điện do ngành công an trang bị để đánh đập, chích điện nhiều lần vào tay, chân, vai bà Lan để ép bà Lan khai nhận hành vi trộm cắp tiền của gia đình anh Trang. Đến 17h45 ngày 29/12/2012, Tuấn và Đông dẫn giải bà Lan bàn giao cho Nhà tạm giữ Công an TP. Nha Trang, đồng thời soạn sẵn biên bản giao nhận người bị bắt, xác nhận bà Lan tình trạng sức khỏe bình thường.
Ngày 30/11/2010, bà Lan bị ngất xỉu tại nhà tạm giữ nên đã được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Khánh Hòa cấp cứu và điều trị, đến ngày 7/12/2010 thì xuất viện.
Theo kết luận của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, bà Lan bị “đa chấn thương”, trong đó có nhiều vết thương ở vùng đùi, tay, ngực...
Ngoài ra, quá trình điều tra, bà Lan khai nhận ngoài Tuấn và Quyết còn có 3 người đàn ông mặc thường phục cũng tham gia đánh bà nhưng kết quả điều tra không có cơ sở để xác định được tên, tuổi ba người này nên không đủ cơ sở để kết luận.
• Mớm cung và dụ cung
Nói lời sau cùng trước tòa, bị cáo Lê Bá Mai khẳng định, mình không phạm tội giết người và đã bị cảnh sát ép cung. Trong khi, VKS bác bỏ và cho rằng bị cáo viên dẫn ra viêc ép cung, vòng vo chối tội “là đang thể hiện sự giãy giụa”. Phiên tòa xét xử bị cáo Lê Bá Mai về tội Giết người và Hiếp dâm trẻ em vẫn đang tiếp tục tranh luận. Bào chữa cho bị cáo, luật sư Bùi Quang Nghiêm (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP HCM) cho rằng "phần bào chữa của luật sư Thanh đã cho thấy Mai không phạm tội" song ông cũng muốn chỉ ra những vi phạm tố tụng nghiêm trọng của cơ quan điều tra. "Suốt 8 năm, các cơ quan tố tụng trước khi xét xử đã phạm sai lầm rất lớn, mà cụ thể là đã đưa ra một đáp số trước rồi tìm các dữ kiện để lý giải đáp số này", luật sư Nghiêm nói.
Theo ông Nghiêm, ngay từ khi khởi tố bị can và bắt tạm giam Lê Bá Mai cơ quan điều tra đã không có dấu hiệu và chứng cứ thuyết phục để bắt. Lời khai của nhân chứng và lời khai của Mai dùng làm căn cứ kết tội chỉ có sau khi bắt tạm giam. Bị cáo Mai đã giải thích vì sao nhận tội nhiều lần như vậy (Mai luôn cho rằng bị ép cung). Và sau này đi tìm lời khai của các nhân chứng để cho phù hợp với lời khai của bị cáo là biểu hiện của sự thiếu khách quan.
Luật sư Nghiêm chỉ ra rằng, trong bản lấy lời khai ngày 16/11/2004, điều tra viên đã hỏi: "Anh suy nghĩ như thế nào về việc lấy xe máy chở Út đi vào sáng 12/11/2004?”. Ở bản cung khác, điều tra viên lại hỏi: “Bị can Mai chở Út đi rồi thực hiện hành vi hiếp dâm và giết Út như thế nào?”. "Hai câu hỏi đều khẳng định bị cáo có tội rồi. Cách hỏi cung như vậy pháp luật không cho phép", ông Nghiêm nói.
Về những câu hỏi điều tra viên đặt ra với Mai trong khi lấy cung, VKS thừa nhận có phần không đúng "nhưng là do trình độ của điều tra viên không nhận thức được ý nghĩa của câu hỏi". "Phương pháp này trong phần xét hỏi hôm qua chính luật sư Nghiêm đã hỏi bị cáo để mớm cung. 'Bị cáo có đọc cáo trạng không?' bị cáo Mai trả lời 'không'. Nhưng sau đó luật sư lại hỏi 'thỉnh thoảng bị cáo có đọc cáo trạng phải không' thì ngay lập tức bị cáo Mai trả lời là 'có'”, người đại diện cơ quan công tố nói và khẳng định không có chứng cứ để chứng minh điều tra viên đánh đập để ép cung bị cáo. Chỉ có lời khai của bị cáo mà cho rằng điều tra viên làm không đúng trách nhiệm của mình là vô căn cứ.
Thật ra, chuyện bị cáo ra tòa phản cung khai rằng bị điều tra viên ép cung, đánh đập… không phải hiếm. Ở đây có hai khả năng: Một là, việc điều tra viên dùng “kỹ năng hỏi cung” để ép bị can nhận tội là có thật. Bị can sợ quá nên nhận đại, chờ ra tòa khai lại. Hai là, người phạm tội đã dùng “kẽ hở” của pháp luật để che giấu tội của mình.
Pháp luật nghiêm cấm việc dùng nhục hình và dùng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử…
Như vậy, bị can, bị cáo muốn chứng minh việc này là có thật thì phải “nói có sách, mách có chứng” tòa mới tin. Trong khi đó, luật không cho phép ghi hình việc lấy lời khai. Nếu các buổi hỏi cung được ghi hình thì sẽ không có chuyện ra tòa các bị cáo phản cung, cho rằng bị điều tra viên ép cung hay dùng nhục hình. Nhờ đó tòa sẽ có cơ sở để xem xét. Và việc này cũng thuận tiện cho điều tra viên và người được lấy lời khai. Họ không thể làm sai khi biết mình đang bị giám sát.
Luật sư Trịnh Công Minh (Đoàn Luật sư TP.HCM) kể rằng ông có mặt trong buổi hỏi cung một bị can phạm tội giết người. Điều tra viên ban đầu rất nhẹ nhàng, xưng hô “Ông” - “Tôi” với bị can. Thế rồi, bất ngờ điều tra viên nổi nóng: Mày khai mỗi hôm một khác. Mày khai thật đi. Hôm nay tao không đánh mày đâu. Theo luật sư, bị cáo có lỗi gì sẽ do tòa án phán quyết. Việc điều tra hoàn toàn không có nghĩa phải moi ra được tội, càng không thể có chuyện dọa nạt, đánh đập, ép cung...
2. Vi phạm nguyên tắc thận trọng khách quan
Trên thực tế, một số Điều tra viên không giữ thái độ khách quan, áp dụng những biện pháp hỏi cung trái pháp luật, vội tin vào lời khai của bị can, biện pháp xác minh, kiểm tra lời khai chưa chính xác. Như đã nêu ở ví dụ trên về việc Lê Bá Mai bị ép cung, mớm cung, sau khi nghe câu bị dùng biện pháp hỏi cung như vậy Mai đã nhiều lần nhận tội – ĐTV chỉ dựa vào lời khai của Mai mà luận tội, như vậy là không có căn cứ và vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 72 “...Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội”.
- Do định kiến có ấn tượng xấu với bị can, nhận thức của người tiến hành tố tụng mang tính chủ quan, cho rằng bị can là người đã bị khởi tố về hình sự thì đương nhiên là có tội nên hỏi cung chỉ chú trọng vào việc khai thác làm căn cứ buộc tội, ép bị can phải nhận tội, thậm chí có trường hợp còn không tiến hành hỏi cung bị can mà lại lấy kết quả của những biên bản hỏi cung trước, đó là trường hợp: Ngày 13-11-2007, TAND TP.HCM đã mở phiên tòa sơ thẩm lần thứ tư xét xử vụ án tham ô của Đặng Nam Trung - nguyên giám đốc Công ty IDC (thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia). Vụ án được khởi tố từ hơn năm năm trước nhưng vẫn luẩn quẩn trong vòng điều tra, truy tố, chưa xét xử sơ thẩm xong. Đến phiên tòa lần thứ tư bị hoãn để trả hồ sơ điều tra bổ sung, cơ quan điều tra mới ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Tuy nhiên, kể từ khi khởi tố (tháng 7-2007) đến nay, Cơ quan điều tra không hề tiến hành điều tra, hỏi cung bị can mà sử dụng lại toàn bộ những bản cung trước đó để làm chứng cứ buộc tội Đặng Nam Trung. Bị cáo Trung bị truy tố với khung hình phạt cao nhất là chung thân, tử hình nhưng các luật sư không được có mặt khi hỏi cung bị can... Qua việc tìm hiểu vụ án trên ta thấy có sự vi phạm thủ tục hỏi cung trong khi điều tra vụ án, bị can đã bị truy tố với khung phạt cao nhất là tử hình thì luật sư của họ bắt buộc phải có mặt khi tiến hành hỏi cung nhưng trong quá trình hỏi cung bị can lại không có mặt của luật sư. Cơ quan điều tra còn không tiến hành điều tra hỏi cung bị can mà lại sử dụng kết quả của những lần hỏi cung trước để làm chứng cứ cho vụ án. Như vậy là một việc làm vi phạm quy định của Bộ luật TTHS một cách nghiêm trọng.
3. Vi phạm về phương pháp hỏi cung bị can
Khi hỏi cung, Điều tra viên phải cảm hóa chính trị để giải quyết tư tường cho bị can, tức là lấy đường lối chính trị, lấy chân lý, lẽ phải để giáo dục, thuyết phục bị can, nhằm tạo ra những thay đổi về mặt tâm lý của bị can một cách tích cực để bị can khai báo thành khẩn. Nhưng trong thực tế, nhiều cán bộ hỏi cung đã không cảm hóa, giáo dục, thuyết phục, có trường hợp cán bộ hỏi cung đã dùng lý lẽ giảng giải cho bị can không đúng tinh thần, nội dung, chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đã dẫn đến nhiều điều luật viện dẫn các biện pháp xử lý, dùng tác động của pháp luật để răn đe bị can... Do vậy đã làm cho bị can hoang mang, lo lắng, hoảng sợ... Từ đó bị can khai báo không đúng sự thật hoặc khai báo theo ý chí của người hỏi cung.
III. Nguyên nhân của những vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can
- Bộ luật TTHS chưa dự liệu được hết các tình huống cụ thể trong thực tiễn.
- Trước hết là do trình độ lý luận chính trị, mức độ hiểu biết đường lối chính sách của Đảng, pháp luật, trình độ nghiệp vụ của một số bộ phận cán bộ Điều tra nói riêng và trong công tác tư pháp nói chung vẫn còn hạn chế
- Chưa làm tốt công tác chuẩn bị hỏi cung: trước khi hỏi cung bị can, cán bộ hỏi cung chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, không hiểu rõ đối tượng hỏi cung, chưa theo dõi nắm bắt được đầy đủ diễn biến tâm lý, thái độ của bị can, không đánh giá đúng bản chất con người bị can.
- Trong quá trình hỏi cung, Điều tra viên chưa thực hiện triệt để và nghiêm túc các nguyên tắc của hoạt động hỏi cung bị can dẫn đến một số hoạt động hỏi cung còn mang tính chất tùy tiện, trái pháp luật.
- Do chủ quan với kinh nghiệm công tác, xét hỏi, coi thường đối tượng, cán bộ hỏi cung thường không chuẩn bị trước đề cương xét hỏi, sử dụng phương pháp, chiến thuật hỏi cung không phù hợp với từng đối tượng bị can.
IV. Các giải pháp hoàn thiện việc vi phạm pháp luật trong hỏi cung bị can
- Tăng cường công tác giáo dục phẩm chất cách mạng và lựa chọn những cán bộ có năng lực, có đầy đủ những kiến thức cần thiết về nghiệp vụ điều tra, tâm lý điều tra tội phạm, có kinh nghiệm công tác để làm công tác hỏi cung bị can và thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra hình sự.
- Sử dụng phương pháp, chiến thuật hỏi cung một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, phải lường trước các tình huống bất ngờ, phức tạp có thể xảy ra trong quá trình hỏi cung, đồng thời cũng dự liệu những biện pháp đề phòng.
- Trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm chắc lý lịch của bị can, đặc điểm tâm lý, tâm tư nguyện vọng của bị can, biết được những điểm yếu của bị can; trong trường hợp hỏi nhiều bị can trong một vụ án thì phải phân biệt và lựa chọn bị can nào hỏi trước, bị can nào hỏi sau để đạt được hiệu quả tốt nhất. Mặt khác Nhà nước và cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề cụ thể như:
- Các nội dung trong biên bản hỏi cung bị can cần được nghiên cứu có mẫu thống nhất với nhau, biên bản mẫu cấp đủ cho các đơn vị sử dụng, tránh trường hợp thiếu biên bản phải sử dụng biên bản khác thay thế (ví dụ biên bản lấy lời khai...)
- Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động hỏi cung bị can. Xây dựng và bố trí nơi hỏi cung hợp lí, không bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài trong khi hỏi cung, góp phần nâng cao hiệu quả của việc hỏi cung.
- Đảm bảo các điều kiện an toàn trong quá trình hỏi cung bị can như: có đầy đủ lực lượng canh gác, dẫn giải bị can, tránh việc bị can bỏ trốn hoặc tấn công cán bộ hỏi cung.
KẾT LUẬN
Hoạt động hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự là một quá trình nằm trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, có nhiệm vụ chủ yếu là thu thập lời khai của bị can từ đó kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn của những lời khai đó để làm chứng cứ phục vụ cho việc chứng minh vụ án hình sự. Bên cạnh những kết quả thu được có ý nghĩa to lớn trong quá trình hỏi cung thì trên thực tế vẫn còn có một số vướng mắc và bất cập nhất định như đã trình bày ở trên. Trên cơ sở nhận thức được điều đó, Cơ quan và cá nhân có thẩm quyền cần phát huy những yếu tố tích cực góp phần thúc đẩy hoạt động hỏi cung có hiệu quả đồng thời cần phải hạn chế và giảm thiểu những vấn đề, khía cạnh tiêu cực đang còn tồn tại trong thực tế để quá trình hỏi cung phát huy được hết sứ mệnh của nó là góp phần chứng minh vụ án hình sự.
No comments:
Post a Comment