I. NỘI DUNG BÌNH ĐẲNG GIỚI
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ nưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó (Điều 5 Luật Bình đẳng giới).
Bình đẳng giới phải được biểu hiện một cách toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.Tuỳ thuộc vào đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội của từng quốc gia, đối với từng lĩnh vực cụ thể, bình đẳng giới có thể được quan tâm ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên, bình đẳng giới đầy đủ và thật sự không cho phép loại trừ hay coi nhẹ bất kỳ một lĩnh vực nào.
Nội dung bình đẳng giới là tổng thể những lĩnh vực của đời sống xã hội được quy định bình đẳng giới. Công ước CEDAW đã đưa ra 11 lĩnh vực loại trừ phân biệt đối xử đối với phụ nữ, đó là các lĩnh vực: chính trị, đại diện quốc tế, quốc tịch, giáo dục, lao động việc làm, chăm sóc sức khoẻ, kinh tế, dân sự, phụ nữ ở nông thôn, hôn nhân và gia đình, bạo lực trên cơ sở giới tính. Khái niệm “loại trừ” thể hiện trách nhiệm của các quốc gia thành viên trong chủ trương triệt để hành động để xoá bỏ bằng mọi biện pháp lập pháp và biện pháp không lập pháp (hành pháp, tư pháp, xã hội) đối với những phân biệt đối xử trên phương diện pháp lý (do pháp luật quy định) và trong thực tế.
Trước đây, nhằm nội luật hoá các quy định về các lĩnh vực loại trừ phân biệt đối xử đối với phụ nữ của Công ước CEDAW, pháp luật Việt Nam đã có các quy định mang tính chất loại trừ phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và gia đình, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp 1992, Luật Bầu cử Quốc hội 2001, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Lao động sửa đổi 2002, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.
Sau khi Luật Bình đẳng giới được Quốc hội ban hành, 8 lĩnh vực bình đẳng giới của đời sống xã hội và gia đình đã được Luật khẳng định và ghi nhận một cách cụ thể. Đây là sự ghi nhận và khẳng định mang tính chất pháp lý về nội dung bình đẳng giới, có phạm vi ảnh hưởng rộng rãi đối với các giới (nam và nữ), và tác động tích cực lâu dài đối với việc triển khai thực hiện các quy định bình đẳng giới trong các ngành luật chuyên ngành trên thực tế, được sự bảo đảm bẳng sự cưỡng chế của Nhà nước. Chương II Luật Bình đẳng giới quy định nội dung bình đẳng giới gồm 8 lĩnh vực bình đẳng giới sau:
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin và thể thao
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
- Bình đẳng giới trong gia đình
1. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Đối với công dân nói chung và phụ nữ nói riêng thì quyền chính trị là một trong những quyền quan trọng và nhạy cảm nhất, thường được đề cập đầu tiên trong hệ thống các quyền mà họ có. Theo Công ước CEDAW thì phạm vi các quyền về chính trị của phụ nữ bao gồm: quyền tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân; quyền ứng cử; quyền tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ nhà nước; quyền tham gia các tổ chức và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời sống cộng đồng và chính trị của đất nước
Trong quan hệ giữa bình đẳng giới và pháp luật có mối quan hệ biện chứng hai chiều: phụ nữ vừa là người hưởng thụ các quyền và lợi ích do pháp luật mang lại, vừa là chủ thể tham gia tạo lập, kiểm soát và hoàn thiện môi trường pháp luật vì sự tiến bộ của phụ nữ và của xã hội. Cương lĩnh hành động của hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ 4 tại Bắc Kinh (Cương lĩnh Bắc Kinh) đã khẳng định: “Không có sự tham gia tích cực của phụ nữ và với sự hợp tác chặt chẽ của phụ nữ ở các cấp ra quyết định và ở các cơ quan pháp luật thì mục tiêu Bình đẳng, Phát triển và Hoà bình không thể thực hiện được”.
Như vậy, quyền chính trị là quyền cơ bản của công dân, là quyền bình đẳng có tính nền tảng để xác lập vị thế pháp lý của công dân - phụ nữ trong đời sống chính trị, đời sống cộng đồng, là hình thức pháp lý thể hiện bản chất dân chủ, bình đẳng của xã hội. Nói đến chính trị là nói đến vấn đề quyền lực, quyền bình đẳng về chính trị của công dân là quyền bình đẳng sử dụng quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Dân chủ gián tiếp là việc người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân do chính họ bầu qua các cuộc bầu cử dân chủ, công khai. CEDAW yêu cầu các quốc gia phải bảo đảm cho phụ nữ được bình đẳng với nam giới dù là với tư cách ngưòi đi bầu cử (cử tri) hay người được bầu (ứng cử viên). Vì vậy, trong các quyền chính trị của phụ nữ thì quyền đầu tiên, cơ bản nhất là quyền tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử và được ứng cử vào tất cả các cơ quan dân cử. Trước tiên, về mặt pháp lý, quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân nói chung và của phụ nữ nói riêng được ghi nhân trong Hiến pháp và các đạo luật về bầu cử của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, dù pháp luật không phân biệt đối xử giữa nam và nữ về quyền bầu của và ứng cử thì thực tế mang tính phổ biến ở các quốc gia là tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan dân cử thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ nam giới. Vì vậy, để phụ nữ đạt được sự bình đẳng thực chất so với nam giới cần tạo điều kiện hỗ trợ cho phụ nữ có đủ năng lực để họ thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình. Theo tinh thần của Công ước CEDAW (Điều 4), nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển ở châu Á, châu Phi đã áp dụng các biện pháp đặc biệt, tạm thời như ấn định tỷ lệ nữ bắt buộc phải đạt được trong các cơ quan dân cử hay trong bộ máy chính quyền địa phương, cơ sở.
Dân chủ trực tiếp là việc công dân, không phân biệt nam, nữ trực tíêp tham gia xây dựng, thực hiện các chính sách, pháp luật, các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, trực tiếp tham gia quản lý nhà nước, xã hội. Đó cũng là việc công dân nam, nữ sử dụng trực tiếp quyền làm chủ của mình để giám sát các cơ quan, công chức nhà nước thực hiện quyền lực được giao; nếu trong quá trình kiểm tra, giám sát phát hiện thấy có vi phạm pháp luật thì có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan có thẩm quyền để cơ quan này giải quyết theo trình tự, thủ tục do luật định.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị cụ thể là bình đẳng giới trong các vấn đề sau (Điều 11 Luật Bình đẳng giới):
- Bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, vào cơ quan lãnh đạo của các tổ chức chính trị, xã hội, chính trị-xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, xã hội - nghề nghiệp.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và các Luật bầu cử ở nước ta đã quy định quyền bình đẳng nam nữ trong bầu cử và ứng cử. Đây là đảm bảo pháp lý cho bình đẳng giới về quyền bầu cử. Tuy nhiên về vấn đề tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vẫn còn chưa được quy định cụ thể và trên thực tế, vẫn còn khoảng cách giới. Vì vậy, Luật Bình đẳng giới đã quy định vấn đề này, trên cở sở đó Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật khác có liên quan chứa đựng những quy định cụ thể nhằm đảm bảo bình đẳng giới về tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử, đồng thời nội dung này không bị trùng lặp với các quy định khác về bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực bầu cử và ứng cử của Hiến pháp và các Luật bầu cử hiện hành.
- Bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước và các hoạt động xã hội, trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
Điều 53 Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý”. Nguyên tắc cơ bản này chính là sự thể hiện tập trung quan điểm của Đảng ta đối với vai trò của người phụ nữ trong việc tham gia đời sống chính trị và cộng đồng của đất nước. Để nâng cao vai trò của người phụ nữ trong lĩnh vực này, cần tăng cường đội ngũ cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế, các tổ chức. Chính sách tăng cường đội ngũ cán bộ nữ đã thể hiện bằng một số văn bản pháp luật của Chính phủ: Quyết định số 72/TTg ngày 25/02/1993 của Thủ tướng Chính phủ về Uỷ ban quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ, Chỉ thị số 646/TTg ngày 07/11/1994 về tổ chức và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, nghành và địa phương, Nghị định số 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/03/2003 quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Có thể nhận thấy, chủ trương tăng cường công tác các bộ nữ của Đảng tương đối rõ ràng và vấn đề nâng cao vai trò, vị trí của phụ nữ trong việc tham gia bộ máy lãnh đạo và ra quyết định đã được đưa vào kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng những chủ trương và kế hoạch này nhìn chung chưa được thể hiện bằng văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, nghành và địa phương.
- Bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi đựoc đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến vấn đề tuyển chọn, bổ nhiệm nhân sự vào các cương vị công tác trong hệ thống cơ quan nhà nước không có điều khoản nào ngăn cản, hạn chế hoặc phân biệt đối xử với phụ nữ. Ví dụ Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 (được sửa đổi bổ sung năm 2000 và 2003), Pháp lệnh về hàm cấp ngoại giao 1995 hay các văn bản pháp luật quy định về những tiêu chuẩn làm một số nghề tương đối đặc biệt trong bộ máy nhà nước (mà ở một số nước trên thế giới chỉ cho phép nam giới được làm) như: thẩm phán, kiểm sát viên (Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân). Tuy nhiên quy định bình đẳng giới mang tính pháp lý về vấn đề này, chỉ đến Luật Bình đẳng giới là văn bản pháp luật đầu tiên quy định bình đẳng nam, nữ về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
2. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Phụ nữ đã có những đóng góp to lớn vào đời sống kinh tế ở khắp mọi nơi. Phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động, vào các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ và thu nhập của họ ngày càng trở nên cần thiết hơn đối với mỗi gia đình. Tuy nhiên, đại bộ phận phụ nữ vẫn đứng ngoài quá trình ra quyết định trong lĩnh vực kinh tế. Họ đang phải đối mặt với tình trạng bị trả lương thấp, làm việc trong điều kiện tồi tàn và cơ hội có việc làm, nghề nghiệp rất hạn chế. Cơ hội thăng tiến và tiếp cận các nguồn lực kinh tế đối với phụ nữ cũng còn rất nhiều hạn chế. Mặc dù phụ nữ đã đóng góp nhiều vào sự phát triển thông qua những công việc được hoặc không được trả công - công việc không được trả công như nội trợ và các hoạt động trong cộng đồng - lại không được đánh gia về chất lượng và số lượng trong thống kê quốc gia (Cương lĩnh Bắc Kinh, Trung Quốc).
Trong lĩnh vực kinh tế, Điều 13 Công ước CEDAW khuyến nghị các nước tham gia Công ước áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá bỏ phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, tiếp cận các nguồn lực kinh tế như vay tiền ngân hàng, cầm cố tài sản và tham gia các hình thức tín dụng khác. Điều 15 Công ước CEDAW quy định các nước tham gia công ước phải bào đảm cho phụ nữ quyền bình đẳng đối với nam giới trước pháp luật, trong đó có quyền tự do kinh doanh là một quyền được pháp luật các nước quy định cho công dân.
Nội luật hoá quy định về bình đẳng giới về lĩnh vực kinh tế của Công ước CEDAW, Điều 12 Luật Bình đẳng giới quy định: “Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động”.
Quyền tự do kinh doanh là quyền được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 57), được cụ thể hoá trong Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 50), Luật Thương mại, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, Luật Hợp tác xã năm 2003 và Luật Doanh nghiệp năm 2005, theo đó cá nhân không phân biệt nam, nữ đều có quyền như nhau trong việc lựa chọn hình thức, lĩnh vực, nghành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 1999 sau đó là Luật doanh nghiệp năm 2005 đã góp phần bình đẳng quyền tự do kinh doanh của công dân nói chung và của phụ nữ nói riêng. Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định mọi cá nhân không phân biệt nam nữ đều có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp.
Để tạo cho phụ nữ thực hiện quyền tự do kinh doanh, tiếp cận các cơ hội kinh tế, có điều kiện phát triển kinh tế gia đình, cần tạo điều kiện để phụ nữ tiếp cận các nguồn lực kinh tế như quyền vay vốn ngân hành, quyền tham gia các hình thức tín dụng…Pháp luật Việt Nam hiện hành không quy định bất kỳ điều kiện khác biệt nào giữa nam giới và phụ nữ trong lĩnh vực này, không những thế Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng còn quy định bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, phụ nữ được cho vay mà không cần thế chấp tài sản vì được tín chấp của các tổ chức, đoàn thể như Hội phụ nữ.
Tuy nhiên, thực hiện sự bình đẳng về các cơ hội trên thực tế là một vấn đề khó khăn, người phụ nữ vấn thường phải chịu nhiều thiệt thòi ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh đặc biệt là những ảnh hưởng mang lại do gánh nặng gia đình, những thiên chức do tạo hoá sinh ra. Vì vậy, Luật Bình đẳng giới đã quy định nội dung bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, là cơ sở pháp lý để Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo khuyến khích và điều kiện cho phụ nữ tham gia sản xuất, kinh doanh.
3. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm là một trong những nội dung quan trọng và cơ bản nhất về bình đẳng nam, nữ trên phạm vi toàn cầu, trong từng quốc gia kể cả Việt Nam . Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm là sự ngang nhau giữa lao động nam và lao động nữ về lĩnh vực lao động, về nghĩa vụ và quyền lợi hay cống hiến và hưởng thụ. Như vậy, không có nghĩa là phải bảo đảm bình đẳng giới theo nghĩa tuyệt đối mà phải giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau thì có quyền lợi (được hưởng thụ) ngang nhau từ kết quả lao động, việc làm; đồng thời tạo cơ hội như nhau giữa nam và nữ trong phát triển nghề nghiệp, tạo và tìm kiếm việc làm, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội và các điều kiện việc làm khác.
Quan điểm bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm được Công ước CEDAW quy định cụ thể tại Điều 11 Khoản 1:
“Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực việc làm nhằm bảo đảm những quyền như nhau trên cơ sở bình đẳng nam, nữ, đặc biệt là:
a) Quyền được làm việc, một quyền không thể chối bỏ của mọi con người.
b) Quyền hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, kể cả việc áp dụng những tiêu chuẩn khi tuyển dụng lao động.
c) Quyền tự do lựa chọn ngành nghề và việc làm, quyền được thăng chức, bảo đảm việc làm, mọi phúc lợi và điều kiện làm việc và quyền được theo học những chương trình đào tạo và bổ túc nghiệp vụ, kể cả các lớp dạy nghề, các lớp nghiệp vụ cao cấp và lớp đào tạo định kỳ.
d) Quyền được hưởng thù lao như nhau, kể cả các phúc lợi, và được đối xử như nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau, cũng như được đối xử như nhau trong việc đánh giá chất lượng công việc.
e) Quyền được hưởng bảo hiểm xã hội, đặc biệt trong các trường hợp về hưu, thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các tình trạng mất khả năng lao động khác, cũng như quyền được nghỉ phép có hưởng lương.
f) Quyền được bảo vệ sức khoẻ và bảo đảm an toàn lao động, kể cả bảo vệ chức năng sinh đẻ.
Phù hợp với các quy định tại Điều 11 Khoản 1 của Công ước, kế thừa đạo lý truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, trong lĩnh vực lao động, Nhà nước ta đã thể chế hoá bằng những quy định cụ thể trong Hiếp pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 62, Điều 63), văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bộ luật Lao động năm 1994 sửa đổi bổ sung bằng Luật sửa đổi bổ sung năm 2006, văn bản pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh toàn diện các vấn đề lao động và việc làm nói chung, trong đó dành riêng một chương (Chương X) quy định các vấn đề việc làm đối với lao động nữ…
Về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng người lao động, Điều 5 Bộ luật Lao động năm 2006 quy định việc tuyển dụng nam, nữ trong các nghề là bình đẳng. Tuy nhiên, trong hầu hết các nghề mà pháp luật không cấm, trên thực tế vẫn thấy rằng nữ lao động vẫn không được tuyển dụng nhiều hơn nam. Nhiều doanh nghiệp tuyển dụng lao động nữ lại đưa thêm các quy định về điều kiện tuyển dụng ngoài pháp luật lao động như: lao động nữ được tuyển dụng sau một thời gian nhất định mới được kết hôn hoặc mới được phép sinh con. Về tiền lương và thu nhập, do tiền lương và tiền công phụ thuộc vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, nên về vấn đề này đã bảo đảm được tính công bằng không có sự phân biệt đối xử về giới. Tuy nhiên, trung bình tiền lương chính của lao động nữ vẫn thấp hơn so với lao động nam do nữ giới có trình độ trung bình thấp hơn so với nam giới nên phải làm những công việc có lương thấp hơn so với nam. Vì vậy, để đạt được bình đẳng giới cần phải có chính sách giáo dục đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho lao động nữ, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề cho lao động nữ. Về chính sách bảo hiểm xã hội và các điều kiện lao động khác, pháp luật không có sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, nhưng vẫn còn sự bất bình đẳng trên thực tế. Tuổi nghỉ hưu thực tế bình quân giữa nam và nữ đều thấp hơn tuổi quy định và có sự chênh lệch khá xa giữa nam và nữ: tuổi nghỉ hưu bình quân của nam là 54,8 tuổi (so với 60 tuổi) và nữ là 49,2 tuổi (so với 55 tuổi), do vậy lao động nữ sẽ ra khỏi cuộc đời lao động sớm hơn nam và vì vậy kéo theo lương hưu sẽ thấp hơn nam giới khoảng 20% (1) ( trích Hội thảo pháp luật về bình đẳng giới, Quốc hội khoá XI, Uỷ ban về các vấn đề xã hội, Dự án VIE, năm 2006). Trong các doanh nghiệp các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn liên quan đến nhiều lao động nữ (ốm đau, thai sản, chăm sóc con nhỏ, thực hiện kế hoạch hoá gia đình…) đã được Quỹ Bảo hiểm xã hội thanh toán theo chế độ, tuy nhiên thủ tục để được nhận các chế độ này còn phiền hà và chậm chạp…Thực trạng về bình đẳng giới như trên chủ yếu là do tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật chưa nghiêm, đồng thời một số quy định của pháp luật lao động vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu bình đẳng giới.
Vì vậy, nhằm đạt được mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động việc làm, là cơ sở để ban hành các văn bản pháp luật lao động hướng dẫn cụ thể có tính khả thi về bình đẳng giới, Điều 13 Luật Bình đẳng giới đã quy định nội dung bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
- Bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng.
- Bình đẳng khi được đối xử tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.
- Bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn, chức danh.
4. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin và thể dục thể thao
Với nhận thức rằng giáo dục là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao năng lực cho người phụ nữ trong việc tiếp cận với các nguồn lực và sử dụng các cơ hội, các công cụ, kể cả công cụ pháp luật, để thực hiện bình đẳng giới nên Công ước CEDAW tiếp cận vấn đề xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục một cách khá toàn diện và sâu sắc tại Điều 10 của Công ước.
Ở Việt Nam, trước khi Công ước CEDAW ra đời và Việt nam ký cam kết thực hiện Công ước, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực giáo dục thể hiện qua các chủ trương chính sách và pháp luật cũng như việc triển khai thực hiện ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945.
Pháp luật Việt Nam hiện hành không có quy định nào nhằm phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, ngành học. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định: phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu (Điều 35), học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 69)...Nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, một loạt các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực này đã được nhà nước ban hành như Luật bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm, Luật Giáo dục, Luật Hôn nhân và Gia đình. Các quy định trong các văn bản pháp luật này không những bao quát tất cả các vấn đề được đề cập tại Điều 10 Công ước CEDAW mà còn đưa ra nhiều chính sách cụ thể sát thực với điều kiện của Việt Nam nhằm tạo cơ hội cho những phụ nữ bị thiệt thòi về thể chất, trí tuệ về điều kiện kinh tế, gia đình…được tham gia học tập, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ bị thiệt thòi nói riêng và của phụ nữ toàn xã hội nói chung.
Tuy nhiên, từ quy định của pháp luật đến việc thực hiện trên thực tế vẫn còn có khoảng cách. Vì vậy trong lĩnh vực giáo dục vẫn còn tồn tại bất bình đẳng trên thực tế vì nhiều lý do khác nhau: quan niệm truyền thống trọng nam khinh nữ, bản thân người phụ nữ còn mặc cảm tự ti không chịu phấn đấu, các hạn chế về giới tính của nữ giới (sinh đẻ, nuôi con nhỏ…). Bất bình đẳng nam nữ về giáo dục có thể được xem xét trên hai khía cạnh: thứ nhất, nam giới và nữ giới trong cùng điều kiện còn chưa được hưởng thụ ngang nhau về những thành tựu giáo dục, ví dụ càng lên các cấp bậc học cao hơn thì tỷ lệ nam giới được đi học cao hơn nữ giới;. thứ hai, với các cơ sở xã hội khác nhau (giàu, nghèo, nông thôn, thành thị…) cơ hội hưởng thụ các thành tựu giáo dục của nam giới và nữ giới khác nhau, và trong cùng một giới cũng có sự khác nhau, ví dụ: trong những gia đình thuộc nhóm nghèo, tỷ lệ trẻ em trai đến trường cao hơn trẻ em gái, nhưng trong những gia đình thuộc nhóm giàu, thì tỷ lệ này chênh lệch ít hơn. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, với sự hội nhập quốc tế, bất bình đẳng trong giáo dục và đào tạo càng có xu hướng gia tăng với sự xuất hiện các trường tư thục, xu thế tự hạch toán kinh doanh của các cơ sở đào tạo.
Tuy pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định tạo sự bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhưng trước khi Luật Bình đẳng giới được Quốc hội ban hành, chưa có văn bản pháp luật nào quy định các nội dung bình đẳng giới trong lĩnh vực này, cùng như các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên thực tế. Điều 14 Luật Bình đẳng giới đã quy định nội dung bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bao gồm:
- Bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.
- Bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào atọ.
- Bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
Về lĩnh vực khoa học và công nghệ, Điều 15 Luật Bình đẳng giới quy định nội dung bình đẳng giới bao gồm:
- Bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ.
- Bình đẳng trong việc tiếp cận các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế.
Trên thực tế, pháp luật không có quy định phân biệt đối xử với phụ nữ, nhưng do quan niệm trọng nam khinh nữ, trong tiếp cận khoa học công nghệ, phụ nữ thưòng gặp nhiều cản trở hơn nam giới, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi…Ví dụ, trong hoạt động khuyến nông, để kiến thức khoa học công nghệ đến với ngưòi nông dân, phải thông qua việc tổ chức thực hiện, nhưng tại cơ sở hầu hết cán bộ của các thôn ấp đều là nam giới, nên việc lựa chọn học viên cũng dễ được hiểu là nam giới; khi các hộ gia đình được phổ biến kiến thức, chủ hộ đại diện hộ gia đình tham gia, nhưng đa phần chủ hộ lại là nam giới, phụ nữ chỉ tham gia khi chồng con có việc bận không thể tham gia được, hoặc trong gia đình không có nam giới nên họ phải đóng vai trò chủ hộ…Việc Luật Bình đẳng giới quy định nội dung bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quy phạm pháp luật bảo đảm bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực có áp dụng khoa học công nghệ.
Về lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể thao Điều 16 Luật Bình đẳng giới quy định nội dung bình đẳng giới:
- Bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao.
- Bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.
5. Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Về lĩnh vực y tế, Công ước CEDAW quy định vấn đề không phân biệt đối xử đối với phụ nữ tại Điều 12 như sau:
“1. Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhằm bảo đảm cho họ, trên cơ sở bình đẳng nam nữ, được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, kể cả các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
2. Ngoài những quy định được ghi trong phần 1 của Điều khoản này, các nước tham gia Công ước phải bảo đảm cho phụ nữ các dịch vụ thích hợp liên quan đến việc thai nghén, sinh đẻ, và thời gian khi đẻ, cung cấp các dịch vụ không phải trả tiền nếu cần thiết, bảo đảm cho phụ nữ sự dinh dưỡng thích hợp trong thời gian mang thai và cho con bú.”
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế thể hiện trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến sức khoẻ của chính họ và trách nhiệm của nam giới trong việc chia sẻ thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình. Trên cơ sở tính đến những sự khác biệt về sức khoẻ thể chất giữa nam và nữ, chú trọng đến những đòi hỏi đặc biệt về chăm sóc sức khoẻ để người phụ nữ thực hiện thiên chức làm mẹ, bên cạnh những quy định bình đẳng chung cho cả hai giới trong lĩnh vực y tế, cần phải bảo đảm cho phụ nữ được hưởng các dịch vụ thích hợp liên quan đến quá trình thai nghén, sinh đẻ và thời gian khi đẻ, cung cấp các dịch vụ miễn phí nếu thấy cần thiết…Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 tại Điều 39 đã quy định về vấn đề bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, trên cơ sở đó hàng loạt văn bản pháp luật đã được ban hành tạo hành lang pháp lý cho việc bảo vệ sức khoẻ của công dân trong đó có sức khoẻ của người phụ nữ.
Để tiến tới bình đẳng giới thực chất về vấn đề này, Điều 17 Luật Bình đẳng giới đã quy định nội dung bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế:
- Bình đẳng nam, nữ trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.
- Bình đẳng trong lựa chọn, quyết định, sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
6. Bình đẳng giới trong gia đình
Bất bình đẳng giới có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, từ khi xã hội loài người chuyển từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền. Bất bình đẳng giới bắt nguồn trước hết từ trong gia đình và tạo ra một trong những hình thức bất bình đẳng lớn nhất lịch sử nhân loại. Những mâu thuẫn và xung đột, vô hình và hữu hình, từ hình thức bất bình đẳng này đã tạo ra muôn và thảm kịch trong gia đình và kéo theo đó là những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội.
Công ước CEDAW đã dành Điều 16 để đề cập đến quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình với mục đích “xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ”, bảo đảm các quyền về kết hôn, ly hôn, sinh đẻ, quyền đối với con cái, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản có trước và sau khi kết hôn…phải được các quốc gia thành viên thực hiện trên cả phương diện lý luận cũng như trên thực tế. Tuy nhiên, nhiều quốc gia thành viên đã bảo lưu Điều 16 vì coi quan hệ hôn nhân và gia đình là “vùng riêng tư” mà Nhà nước hoặc không nên hoặc cũng chưa điều chỉnh được - đó chính là các quốc gia chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của hệ tư tưởng truyền thống, hệ thống tôn giáo hay các phong tục tập quán mang nặng định kiến giới và bất bình đẳng nam nữ (ví dụ các quốc gia Hồi giáo).
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 kế thừa các quy định về bình đẳng giới của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1992 đã đề ra những nguyên tác pháp lý cơ bản nhất nhằm củng cố và xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới , thực hiện nam nữ bình đẳng. Điều 52 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Thuật ngữ “công dân” ở đây phải được hiểu là cả nam và nữ. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Điều 64 Hiến pháp quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hô nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về vấn đề này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trong như Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 bảo đảm quyền bình đẳng vợ chồng, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt…; Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định bình đẳng nam nữ trong các quan hệ dân sự, các quyền nhân thân trong đó có các quyền trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (quyền kết hôn, quyền ly hôn…); Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hẳn một chương (Chương XV) về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.
Điều 18 Luật Bình đẳng giới quy định:
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.
- Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện nhu nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
- Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
II. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI
Biện pháp bảo đảm bình đẳng giới là biện pháp thích hợp để bảo đảm cho sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, bảo đảm cho phụ nữ có thể thực hiện được các quyền con người và quyền tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới được quy định tại Chương III Luật Bình đẳng giới, từ Điều 19 đến Điều 24, bao gồm 6 biện pháp bảo đảm bình đẳng giới cụ thể.
1. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
a. Khái niệm biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới là vấn đề tồn tại khách quan trên thực tế, mặc dù pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam đã có những quy định để giảm khoảng cách giới, đạt được mục tiêu bình đẳng giới thực sự.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong lịch sử lập pháp có ba mô hình bình đẳng nam, nữ:
- Mô hình bình đẳng hình thức. Theo mô hình này, tất cả các quy phạm pháp luật đều theo một tiêu chuẩn chung, duy nhất dành cho cả nam và nữ, không hề tính đến sự khác biệt về giới tính. Mô hình này, do đó, dẫn đến sự bất bình đẳng trên thực tế vì đã bỏ qua những nhu cầu của phụ nữ được pháp luật bảo hộ trong khi họ thực hiện các thiên chức riêng đối với nữ giới (mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ…) hoặc nhu cầu của phụ nữ cần được bảo vệ, đặc biệt trong những trường hợp do những định kiến giới nặng nề trong xã hội làm cho các quy định chung và áp dụng như nhau cho cả nam và nữ về vấn đề quyền và lợi ích bị vô hiệu hóa đối với nữ giới.
- Mô hình bảo vệ cho rằng cần tính đến sự khác biệt giới giữa nam và nữ nhưng lại cho rằng sự khác biệt đó là do những điểm yếu không thể tránh khỏi của phụ nữ, vì vậy giải pháp ở đây là cần phải hạn chế bớt một số quyền liên quan đến những điểm yếu đó của phụ nữ so với nam giới (ví dụ hạn chế quyền được làm việc của phụ nữ trong những điều kiện nhất định), điều này trái với yêu cầu của CEDAW.
- Mô hình bình đẳng thực chất. Mô hình này thừa nhận sự khác biệt về giới tính giữa nam và nữ đồng thời chỉ ra nguyên nhân của sự bất bình đẳng nam, nữ là do sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ đã thành thói quen hàng nghìn năm của xã hội, cộng đồng. Để giải quyết vấn đề này, mô hình bình đẳng thực chất chọn cách tiếp cận mang tính “khắc phục", cụ thể là: bên cạnh những quy định bình đẳng nam nữ, cần có những quy định riêng cho phụ nữ, thậm chí phải có cả những quy định mà tạm thời bị coi là phân biệt đối xử với nam giới nhằm đạt được sự bình đẳng thực tế giữa nam giới và phụ nữ, bình đẳng về thực chất cho phụ nữ. Đây chính là mô hình bình đẳng của CEDAW và cùng là mô hình bình đẳng giữa nam và nữ trong pháp luật Việt Nam .
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp bảo đảm bình đẳng giới dựa trên nguyên tắc bình đẳng thực chất giữa nam và nữ, một trong các nguyên tắc cơ bản của Công ước CEDAW. Công ước CEDAW thừa nhận rằng giữa nam và nữ ở mọi nơi trên thế giới vẫn luôn tồn tại sự khác biệt về giới tính (khác biệt về tự nhiên) và giới (khác biệt về xã hội, do các quan điểm xã hội tạo nên). Chính sự khác biệt này làm cho phụ nữ thường có vị thế yêu hơn nam giới trong các quan hệ. Vì vậy, những quy định bình đẳng nam nữ không tính đến các sự khác biệt về giới tính và giới giữa nam và nữ (còn gọi là các quy phạm pháp luật trung tính về giới) trong nhiều trường hợp sẽ không tác động giống nhau giữa nam và nữ. Ví dụ: pháp luật quy định mọi công dân (nam và nữ) đều có quyền ứng cử, nhưng trên thực tế, tỉ lệ phụ nữ tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử rất thấp so với nam giới, lí do của hiện tượng trên là ở quan niệm sai lệch, định kiến giới cho rằng việc xã hội, quản lí là của nam giới, phụ nữ không nên tham gia, chỉ nên làm công việc nội trợ... Như vậy, với các quy phạm pháp luật trung tính về giới, trên thực tế đem lại kết quả là nam nữ không được thụ hưởng bình đẳng như nhau những lợi ích có từ quy định manh tính bình đẳng đó. Để góp phần khắc phục khoảng cách giữa bình đẳng trong quy định pháp luật và bất bình đẳng trên thực tế, Điều 4 của Công ước CEDAW đã đưa ra một nguyên tắc rất tiến bộ, đó là quy định việc các nước thành viên thông qua những biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm mục tiêu thúc đẩy nhanh bình đẳng thực chất giữa nam và nữ sẽ không bị coi là phân biệt đối xử (khái niệm phân biệt đối xử được quy định tại Điều 1 của Công ước). Điều 4 Công ước CEDAW: “Việc các nước thông qua những biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm thúc đẩy nhanh sự bình đẳng trong thực tế giữa nam và nữ sẽ không bị coi là phân biệt đối xử nhưng sẽ không vì thế mà đưa đến việc duy trì những tiêu chuẩn không bình đẳng hoặc khác nhau. Những biện pháp này sẽ chấm dứt khi các mục tiêu bình đẳng về cơ hội và đối xử đã đạt được”.
“Tính chất đặc biệt” của biện pháp này có nghĩa là chỉ quy định riêng cho một giới để thúc đẩy bình đẳng trên thực tế và “tính chất tạm thời” có nghĩa là chỉ được áp dụng trong những điều kiện nhất định khi chưa đạt được mục tiêu bình đẳng về cơ hội và ứng xử. Như vậy, khi thực hiện các biện pháp này, các quốc gia thành viên cần phải thường xuyên rà soát việc áp dụng và đánh giá hiệu quả của các biện pháp, đồng thời chấm dứt các biện pháp đó khi đã đạt được mục tiêu bình đẳng trên thực tế. Cũng theo Điều 4, việc các nước thành viên thông qua những biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ người mẹ sẽ không bị coi là phân biệt đối xử.
Sau khi tham gia Công ước CEDAW, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội... mang tính chất là các biện pháp đặc biệt tạm thời theo tinh thần của CEDAW, như quy định tuổi nghề hưu đối với nam giới là 60, đối với nữ giới là 55; quy định một số ngành nghề nặng nhọc cấm tuyển lao động nữ, hay các quy định ưu tiên cho phụ nữ khi mang thai, nuôi con nhỏ... Tuy nhiên, chỉ đến khi Luật Bình đẳng giới được ban hành thì các quy định pháp luật có tính chất là các biện pháp đặc biệt tạm thời của Công ước CEDAW mới được khẳng định là “biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới”, một trong các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, mà trong bất kì lĩnh vực nào của đời sống xã hội và gia đình Nhà nước cũng xây dựng và áp dụng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đó, để đạt đến sự bình đẳng thực chất giữa nam và nữ.
Như vậy, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được (Điều 5 Khoản 6 Luật Bình đẳng giới).
b. Đặc điểm của biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Thứ nhất, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp bảo đảm bình đẳng giới thực chất. Theo quan điểm thừa nhận còn có sự khác biệt về giới tính và giới giữa nam và nữ, điều này kéo theo việc tồn tại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Để đạt được mục tiêu bình đẳng giới, các quốc gia đã ban hành các quy phạm pháp luật bình đẳng chung cho cả nam và nữ (quy định như nhau cho cả nam và nữ). Đây là các quy phạm có tính bắt buộc để bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lí giữa nam giới và phụ nữ, tuy nhiên, trên thực tế, các quy định này chỉ đạt được bình đẳng mang tính hình thức. Vì vậy, bên cạnh các quy phạm pháp luật trung tính về giới, cần có các quy phạm pháp luật riêng cho phụ nữ để bảo đảm bình đẳng thực chất cho phụ nữ khi họ thực hiện chức năng làm mẹ, vì vậy các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới thực chất này có tính khá ổn định và lâu dài. Đồng thời, trong những lĩnh vực cụ thể còn tồn tại sự phân biệt đối xử với phụ nữ, sự bất bình đẳng nam nữ, cần có các quy phạm pháp luật đặc biệt cần thiết để thúc đẩy nhanh bình đẳng thực chất cho phụ nữ trong những điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể, và do đó các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới thực chất này chỉ được coi là biện pháp tạm thời.
Thứ hai, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp bảo đảm bình đẳng giới do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Vì tính chất đặc thù của biện pháp này là còn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, do đó biện pháp này chỉ có thể do cơ quan nhà nước nhất định có thẩm quyền ban hành. Các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội khác không có thẩm quyền ban hành các biện pháp này.
Thứ ba, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới chỉ được áp dụng khi còn khoảng cách giới lớn giữa nam giới và phụ nữ trong các lĩnh vực cụ thể, mà việc áp dụng các quy định như nhau (quy phạm pháp luật trung tính về giới) giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch đó.
Thứ tư, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời hạn nhất định và chấm dứt khi mục tiêu bình đẳng giới đã đạt được. Việc duy trì các quy định, các tiêu chuẩn không bình đẳng hoặc khác nhau khi mục tiêu bình đẳng giới đã đạt được sẽ tạo tác động ngược lại, làm cơ sở phát sinh bất bình đẳng trên thực tế. Vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn phải kiểm soát đánh giá hiệu quả của các biện pháp đó, đồng thời khi đã có đầy đủ các điều kiện để đạt được bình đẳng về cơ hội và đối xử giữa nam và nữ, cần chấm dứt các biện pháp này và thay thế bằng việc ban hành các quy phạm pháp luật trung tính về giới.
c. Hệ thống các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm:
- Quy định tỉ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỉ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng.
- Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam.
- Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam.
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam.
- Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam.
- Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam.
Ngoài các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới nêu trên do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để bảo đảm bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, trong những lĩnh vực khác nhau còn có những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đặc thù riêng, phù hợp với đặc điểm riêng của các quan hệ xã hội còn có khoảng cách giới và bất bình đẳng giới trong lĩnh vực cụ thể đó.
Đối với lĩnh vực chính trị, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm:
- Bảo đảm tỉ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
- Bảo đảm tỉ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Trong lĩnh vực kinh tế các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới gồm có:
- Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật.
- Lao động nữ trong khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực lao động, có các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đặc thù sau:
- Quy định tỉ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động.
- Đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ.
- Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng gồm:
- Quy định tỉ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo.
- Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.
2. Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm bình đẳng giới về mặt pháp lí và bình đẳng giới thực chất là một trong các biện pháp quan trong để đạt đến mục tiêu bình đẳng giới. Vấn đề này đã được quy định tại Điều 3 Công ước CEDAW, theo đó “các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp kể cả biện pháp pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa, để bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, bảo đảm cho họ có thể thực hiện được các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới”. Như vậy, theo Điều 3 Công ước CEDAW, biện pháp lập pháp là biện pháp quan trọng và mạnh mẽ nhất thể hiện sự khẳng định của Nhà nước đối với mục tiêu bình đẳng giới.
Trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần dựa trên các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới đã được quy định tại Điều 6 Luật Bình đẳng giới. Đó là các nguyên tắc: bình đẳng nam nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới; chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật; thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình cá nhân. Các nguyên tắc trên phải được đảm bảo là các nguyên tắc chủ đạo, có tính xuyên suốt trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, từ khâu xây dựng soạn thảo đến ban hành thực hiện, đánh giá rút kinh nghiệm để sửa đổi bồ sung. Như vậy, việc xây dựng, sửa đổi bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới (Điều 20 Khoản 1 Luật Bình đẳng giới).
Ngoài ra, quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật cần phải tiến hành rà soát để sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật không có quy đinh mang mục tiêu bình đẳng giới hoặc đã có quy định nhưng chưa phù hợp. trong quá trình rà soát này cần phải chú trọng đến các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới, xem đây là căn cứ quan trọng để xem xét các văn bản quy phạm pháp luật có còn phù hợp hay không (có vi phạm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới không, nếu có thì phải sửa đổi bổ sung theo đó tiếp tục tuân thủ các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới). Điều 20 Khoản 2 Luật Bình đẳng giới quy định: “Nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới là một căn cứ quan trọng của việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật”.
3. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
a. Khái niệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Khái niệm “lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật” xuất phát từ khái niệm “lồng ghép giới”. Lồng ghép giới là một khái niệm mới xuất hiện trong khoa học xã hội học, được hiểu là phương pháp tiếp cận, là chiến lược nhằm đạt được sự bình đẳng giới trên phạm vi sâu rộng của đời sống xã hội bằng cách đưa các yếu tố giới vào quá trình hoạch định và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bản chất của lồng ghép giới là việc các cơ quan nhà nước cần xem xét và giải quyết các vấn đề giới trong công tác quản lí nhà nước, trên cơ sở nhận thức nam giới và phụ nữ có sự khác biệt về giới tính và giới, vì vậy có nhu cầu và vấn đề ưu tiên khác nhau, cũng như chịu sự tác động khác nhau của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước cần có quan điểm giới sao cho những khía cạnh phức tạp và khác biệt về giới và giới tính giữa nam và nữ, nhu cầu và ưu tiên của nam giới và phụ nữ đều được coi trọng được xem xét và giải quyết một cách tự giác ngay từ ban đầu, ở mọi cấp mọi ngành và mọi giai đoạn của các chu trình chính sách, nhằm đáp ứng thỏa đáng nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.
Lồng ghép giới là một phần tất yếu của hoạt động quản lí có hiệu quả của Nhà nước, trong tất cả các mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp, trên mọi mặt và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm đảm bảo rằng các thiết chế pháp luật, các chính sách của Nhà nước có sự tham gia bình đẳng của nam và nữ trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội và phân phối công bằng các thành quả của xã hội giữa nam và nữ.
Lồng ghép giới có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, công tác lồng ghép giới là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng, thực thi, giám sát và đánh giá các chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, lồng ghép giới không chỉ đạt đến các chính sách, chương trình, dự án dành riêng cho đối tượng nữ mà nhằm khuyến khích sự tham gia đầy đủ và bình đẳng của cả nam giới và phụ nữ trong tất cả các chương trình chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực và ở tất cả các cấp.
Thứ ba, lồng ghép giới là phương pháp không chỉ tạo ra những thay đổi cho phụ nữ hay chỉ phục vụ lợi ích của phụ nữ mà nhằm đem lại những thay đổi trong mối quan hệ xã hội về giới giữa nam và nữ để đạt được sự chia sẻ bình đẳng các quyền lợi và nghĩa vụ, mang lại lợi ích cho cả nam và nữ.
Thứ tư, lồng ghép giới là biện pháp không chỉ đòi hỏi các chính sách, chương trình của nhà nước có sự thay đổi về vai trò giới và năng lực của phụ nữ mà phải thúc đẩy và hỗ trợ những thay đổi về vai trò giới, thái độ và hành vi của cả nam giới và phụ nữ.
“Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật” là một biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, vì có bản chất là lồng ghép giới – phương pháp tiếp cận, chiến lược nhằm đạt được sự bình đẳng giới nhưng chỉ trong lĩnh vực lập pháp.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh (Điều 5 Khoản 7 Luật Bình đẳng giới).
Để đạt được mục tiêu bình đẳng giới, Nhà nước phải tiến hành nhiều biện pháp thích hợp khác nhau, như biện pháp về pháp luật (xây dựng hoàn thiện pháp luật, thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật - lập pháp, hành pháp, tư pháp) biện pháp xây dnựg các cơ quan chuyên trách ở các cấp hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ, biện pháp tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tổ chức đoàn thể vì sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ, biện pháp mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Trong các biện pháp này biện pháp xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm bình đẳng giới là quan trọng nhất, vì nó tạo nên cơ sở pháp lí để bảo đảm sự bình đẳng thực chất giữa nam giới và phụ nữ.
Việt Nam là một nước có hệ thống pháp luật thành văn, vì vậy việc sửa đổi bổ sung văn bản quy phạm pháp luật nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới không đơn giản hơn so với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới, đồng thời thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập toàn cầu đã và đang đặt ra nhiều thách thức mới cho mục tiêu bình đẳng giới, tạo ra những hoàn cảnh và tình huống phân biệt đối xử trên thực tế mà pháp luật chưa lường hết được, hoặc phải giải quyết bằng các biện pháp xã hội. Để đạt được bình đẳng giới trên thực tế, trong lĩnh vực lập pháp cần thiết phải đặt ra vấn đề lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, hay nói cách khác là phải lồng ghép vấn đề giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, một trong các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
b. Đặc điểm của biện pháp lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Về bản chất, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một hình thức lồng ghép giới. Do vậy biện pháp bảo đảm bình đẳng giới này có các đặc điểm của lồng ghép giới nói chung. Bên cạnh đó, do lĩnh vực tiến hành lồng ghép giới là lĩnh vực lập pháp, nên lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp bảo đảm bình đẳng giới chỉ do các cơ quan Nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành pháp luật tiến hành.
Thứ hai, đây là biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực lập pháp mang tính hoạch định chính sách pháp luật, có tính chất chiến lược lâu dài bằng cách đưa yếu tố giới và quan điểm giới vào mọi giai đoạn của chu trình xây dựng văn bản pháp luật.
c. Nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Muốn hệ thống pháp luật thực định chú trọng đến các khía cạnh của bình đẳng giới, đạt được mục tiêu bình đẳng giới cả về mặt pháp lí và bình đẳng thực chất, khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cần có quan điểm bình đẳng giới, xem xét vấn đề giới cũng như biện pháp giải quyết để bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đồng thời, với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật cần xem xét các tác động về bất lợi về giới có thể xảy ra khi ban hành và áp dụng các quy định đó trong thực tế, cũng như xác định trách nhiệm và nguồn lực giải quyết các vấn đề giới phát sinh trong phạm vi văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:
Thứ nhất, xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh có tồn tại bất bình đẳng giới không, đó là những vấn đề cụ thể nào; đã có các quy định bình đẳng chung cho cả nam và nữ chưa, nếu đã có rồi thì trên thực tế quy định đó có tác động như nhau đối với nam và nữ không, nếu không vì lí do gì; đối với những vấn đề liên quan đến phụ nữ khi họ thực hiện các thiên chức riêng của người mẹ đã có các quy định riêng để giải quyết chưa; các vấn đề còn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ đã được giải quyết bằng các quy phạm đặc biệt cần thiết để thúc đẩy nhanh sự bình đẳng thực chất chưa... Ví dụ, trong lĩnh vực đất đai, về vấn đề hưởng dụng đất giữa nam giới và phụ nữ cần được xem xét là phụ nữ luôn ở vị thế bất lợi so với nam giới (phụ nữ thường không được quyết định các vấn đề liên quan đến sử dụng đất - một tài sản có giá trị lớn – cũng như có tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng...) vì vậy để giải quyết thực trạng trên pháp luật đất đai quy định đối với quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi tên của cả hai vợ chồng. Đây là một quy phạm pháp luật trung tính về giới.
Thứ hai, dự báo tác động của các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành đối với nam và nữ. Pháp luật là mặt bằng đồng đều áp dụng cho các đối tượng không cùng vị thế. Trong lĩnh vực lập pháp và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các nhà lập pháp, lập quy thường chỉ chú ý tới các quy phạm theo mặt bằng chính sách chung, ít chú ý đến đối tượng áp dụng không cùng vị thế hoặc có điều kiện hoàn cảnh khác nhau, chịu sức ép khác nhau. Ví dụ chính sách tăng - giảm độ tuổi về hưu đối với nữ giới, mặt bằng chung này có thể có lợi cho nữ giới lao động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giảng dạy, mà lại bất lợi đối với nữ giới ở khu vực lao động nặng nhọc, hay chính sách xóa bỏ chợ cóc, hàng xén, nhưng khi ban hành chính sách này nhà lập pháp, lập quy lại không tìm giải pháp giúp đỡ kế sinh nhai cho người thu nhập thấp sinh sống chủ yếu nhờ buôn bán nhỏ trong các chợ cóc, chợ tạm, buôn bán hàng xén mà đa số là phụ nữ.
Thứ ba, sau khi dự báo được tác động giới của các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành cần xác định trách nhiệm và nguồn lực để giải quyết các vấn đề giới trong phạm vi văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
d. Trách nhiệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật
Trách nhiệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc về cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản, cơ quan này phải chuẩn bị báo cáo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đồng thời chuẩn bị phụ lục thông tin, số liệu về giới có liên quan đến dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật phải do cơ quan thẩm định văn bản quy phạm pháp luật tiến hành phối hợp với cơ quan quản lí nhà nước về bình đẳng giới để đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung đánh giá bao gồm: xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo; bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo; tính khả thi của việc giải quyết vấn đề giới được điều chỉnh trong dự án, dự thảo; việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án, dự thảo đó.
4. Thẩm tra lồng ghép về bình đẳng giới
Ủy ban của Quốc hội phụ trách lĩnh vực giới có trách nhiệm tham gia với Hội đồng dân tộc, Ủy ban khác của Quốc hội để thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét thông qua.
Nội dung thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới bao gồm: xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo; việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo; việc tuân thủ thủ tục và trình tự đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng dự án, dự thảo; tính khả thi của dự án, dự thảo để bảo đảm bình đẳng giới.
5. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới
Vấn đề giới và bình đẳng giới là vấn đề còn khá mới mẻ trong khoa học xã hội và khoa học pháp lí, trên thế giới cũng như ở Việt Nam . Tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng như quan điểm định kiến giới đã ăn sâu vào ý thức của cả nam giới và phụ nữ, đã in đậm trong cách sống hàng ngày, trong phong tục tập quán của người dân. Vì vậy, không thể làm thay đổi nhận thức của cả nam và nữ về vấn đề giới và bình đẳng giới trong một sớm một chiều.
Biện pháp thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới là biện pháp bảo đảm bình đẳng giới mang tính chất giáo dục, thuyết phục tác động dần dần một cách sâu rộng vào quần chúng nhân dân. Tuy biện pháp này không đem lại hiệu quả ngay tức thời, nhưng khi đã đạt được kết quả thì đem lại tác dụng tích cực, lâu dài và ổn định, không gây ra các tác động ngoại ý khác.
Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức giới và bình đẳng giới. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới được đưa vào chương trình giáo dục trong nhà trường, trong các hoạt động của cơ quan, tổ chức và cộng đồng. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới thông qua các chương trình học tập, các ấn phẩm, các chương trình phát thanh, truyền hình và các hình thức khác (Điều 23 Luật Bình đẳng giới).
6. Biện pháp bảo đảm bình đẳng giới bằng nguồn tài chính
Để có thể thực hiện được các chính sách của Đảng, của Nhà nước, các quy định của pháp luật về bình đẳng giới cần phải có nguồn tài chính nhất định. Vấn đề bình đẳng giới là vấn đề quan trọng phải được Nhà nước thực hiện, vì vậy nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới trước hết phải được trích từ ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, muốn đạt được bình đẳng giới thực sự trong xã hội, cần có sự phối hợp của Nhà nước với các ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế và cá nhân… để huy động nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới.
Theo Điều 24 Luật Bình đẳng giới, nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới bao gồm: ngân sách Nhà nước, đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân, các nguồn thu hợp pháp khác. Việc quản lí, sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới phải đúng mục đích, có hiệu quả và theo quy định của pháp luật.
No comments:
Post a Comment