01/12/2014
Phân tích cơ sở thiết lập và những biểu hiện của nhà nước phân quyền cát cứ phong kiến Tây Âu - Bài tập học kỳ Lịch sử Nhà nước và pháp luật Thế giới

Trạng thái phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản, nổi bật nhất trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu, bao trùm và chi phối mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị phong kiến Tây Âu. Vậy trạng thái phân quyền cát cứ là như thế nào, bắt nguồn từ đâu, và hệ quả của nó ra sao? Để làm rõ những vấn đề này, sau đây em xin được đi vào tìm hiểu đề tài: “ Phân tích cơ sở thiết lập và những biểu hiện của nhà nước phân quyền cát cứ phong kiến Tây Âu."


B.NỘI DUNG

1. Khái quát thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu.

Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến Tây Âu được chia làm 3 giai đoạn:

- Sơ kỳ trung đại (từ thế kỷ V đến thế kỷ IX): Đây là giai đoạn hình thành và củng cố nhà nước phong kiến Tây Âu.

- Trung kỳ trung đại ( Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIV): Đây là giai đoạn phát triển của nhừ nước phong kiến Tây Âu.

- Hậu kỳ trung đại ( từ thế kỷ XIV đến thể kỷ XVII): Đây là giai đoạn khủng hoảng và suy vong của chế đọ phong kiến ở Tây Âu.

Mối quan hệ phong kiến Tây Âu là quan hệ bóc lột bằng địa tô, mối quan hệ thể hiện rõ nhất đặc trưng của chế độ phong kiến Tây Âu. Mối quan hệ giữa lãnh chúa và nông nô là mối quan hệ bất bình đẳng về mọi mặt. Lãnh chúa phong kiến phương Tây là chủ sở hữu ruộng đất lớn, nguồn lợi thu hầu hết bằng địa tô. Vì vậy, hình ảnh của vị địa chủ phong kiến phương Tây rất nổi, hay nói cách khác, định tính và định hình của giai cấp địa chủ phong kiến phương Tây rất rõ ràng và đậm nét. Nông nô Phương Tây không có ruộng đất,phải lĩnh canh ruộng đất của lãnh chúa và nộp địa tô cho chủ. Người nông nô đúng 100% là người tá điền, hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Chế độ sở hữu tư về ruộng đất tập trung vào tay của giai cấp phong kiến là gần như tuyệt đối. Năm 843 chế độ phân quyền cát cứ xuất hiện và ngày càng phát triển.

2. Trạng thái phân quyền cát cứ của nhà nước phong kiến Tây Âu.

2.1 Cơ sở thiết lập ( nguyên nhân).

Xét về nguyên nhân sau xa, vào thời kỳ này Đế quốc Frăng được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm lược và được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiệp tạm thời, không vững chắc. Trong phạm vi cả Tấy Âu và phạm vi từng nước đều có khuynh hương phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng buộc của chính quyền phong kiến trung ương.

Xét về nguyên nhân cơ bản, có tính quyết định đó là về kinh tế mà trong đó, trước hết phải nói đến chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của lãnh chúa được hình thành từ hai nguồn:

Thứ nhất là từ chế độ phân phong ruộng đất và chế độ thừa kế ruộng đất. Các vua đều ban cấp ruộng đất cho những người trong họ hàng, cho bầy tôi và cho giáo hội để trả công cho họ, hoặc để mua chuộc sự ủng hộ của họ khi xảy ra chiến tranh. Các quý tộc, các lãnh chúa lớn cũng làm như vậy, tức là cũng phải đem ruộng đất vua phân phong để chia cho tùy tùng của mình. Chế độ phân phong theo hình chóp như vậy đã tạo nên các quan hệ thần thuộc và tôn chủ, đó là quan hệ giữa người nhận đất và người phong đất. Khởi đầu các ruộng đất phong chưa trở thành vật sở hữu có thể thừa kế. Nhưng sau đó trên thực tế, tất cả con cái đều được thừa kế ruộng đất mà cha ông mình được phân phong. Từ thế kỉ XI đã hình thành nên một tập quán mới: chỉ người con trưởng mới được thừa kế. Một bộ phận đất tự do là tài sản tư hữu của con cháu những địa chủ La Mã xưa kia và của chúa phong kiến địa phương do thừa kế và cưỡng đoạt mà có. Những chúa đất này sẽ không thể nào giữ được tính mạng và tài sản, nếu không có trong tay một lực lượng vũ trang và một đám thân thuộc xung quanh để làm chỗ dựa. Vì vậy những chúa đất này cũng phải thực hiện việc phân phong như trên.

Thứ hai là từ số ruộng đất ít ỏi của những nông dân tự do, nằm rải rác trong những khu đất đai của lãnh địa. Nông dân tự do ngoài nghĩa vụ phải đi lính cho nhà vua, còn là nạn nhân của các cuộc nội chiến, là đối tượng cướp bóc của giặc ngoại xâm, nên họ phải nhờ chúa phong kiến ở lãnh địa để bảo hộ cho mình. Và đương nhiên họ phải hiến đất cho lãnh chúa và trở thành lệ nông hoặc nông nô.

Chế độ phân phong và thừa kế dẫn đến hậu quả quyền sở hữu tối cao về ruộng đất không thuộc về nhà vua và dẫn tới trạng thái phân quyền cát cứ. Trạng thái phân quyền cát cứ đẻ ra trạng thái kinh tế tự cấp tự túc. Đến lượt nó nền kinh tế tự nhiên nó lại là một yếu tố kinh tế củng cố trạng thái chính trị phân quyền cát cứ.

Đồng thời, về giao thông: do chiến tranh liên miên lại không được sửa chữa nên việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn và không an toàn do nạn cướp bóc thường xuyên xảy ra. Vì vậy, liên hệ giữa các vùng không thường xuyên chặt chẽ. Đây là một số nguyên nhân dẫn tới khuynh hướng cát cứ địa phương của các chúa phong kiến.

Ngoài ra, từng nước còn có những nguyên nhân khác nhau: 

VD: Ở pháp, có những thời kỳ mà ruộng đất của nhà vua ít hơn rất nhiều so với ruộng đất của các lãnh chúa phong kiến, thể lực của nhà vua rất hạn chế. Những lãnh chúa lớn thường áp đảo nhà vua và tranh giành quyền lợi với nhau.

Ở Italia, do sự hình thành của các quốc gia thành thị, do sự xâm lược và xâu xé của các thế lực bên ngoài, do sự hình thành quốc gia của giáo hoàng ở miền trung Italia, nên Italia không có chính quyền trung ương.

Ở Đức, bọn chúa phong kiến rất chú trọng việc xâm lược để thỏa mãn nhu cầu ruộng đất và của cải. Thế lực của chúng rất mạnh, nên cục diện cát cứ ở Đức rất trầm trọng, thể kỉ XV ở Đức có khoảng 300 lãnh địa lớn nhỏ. Nói đến trạng thái phân quyền cát cứ là nói đến lãnh địa và lãnh chúa phong kiến. Đất đai được phân phong lần lượt trở thành tư hữu và tạo nên lãnh địa. Nhà vua ở trung ương thực tế cũng chỉ là một lãnh chúa mà thôi. Có hai lãnh địa là lãnh địa phong kiến và lãnh địa của giáo hội thiên chúa.

2.2. Biểu hiện của trạng thái phân quyền cát cứ.

Về kinh tế: nền kinh tế của lãnh địa là nền kinh tế tự cung tự cấp. Lãnh địa có nhiều trang viên, các trang viên lại được chia thành hai phần, một phần do lãnh chúa trực tiếp quản lý gồm lâu đài và một số ruộng đất, vườn tược, một phần gồm đất đai canh tác được chia thành nhiều khoản nhỏ để cấp cho các gia đình nông dân lãnh canh.

Về xã hội: Quan hệ cơ bản trong xã hội là quan hệ lãnh chúa với nông dân. Nông dân có ba loại: nông dân tự do, lên nông và nông nô. Lệ dân và nông dân tự do trước sau gì cũng bị biến thành nông nô, cả đời phụ thuộc chặt chẽ vào lãnh chúa, làm lao dịch không công, nọp địa tô cho địa chủ… Đối với lệ nông không phải nông nô, thid số ngày lao dịch và khoản tô hiện vật được giảm nhẹ hơn. Vì nông nô phụ thuộc vào chúa phong kiến vầ mặt thân thể, nên họ phải nộp thuế thân cho chúa phong kiến. Nông nô lấy vợ, lấy chồng phải nộp thuế kết hôn. Con cái nông nô muốn kế thừa tài sản của cha cũng phải nộp thuế kế thừa. Nhưng so với lệ nô trong xã hội cổ đại thì thân phận của nông no có khác hơn, họ có nhà của, công cụ sản xuất, kinh tế gia đình riêng.

Về chính trị: Những tược vị và chức vị mà nhà vua trao cho lãnh chúa nay trở thành cha truyền con nối, biến luôn khu vực hành chính do chúng đứng đầu thành lãnh địa riêng, biến thần thuộc, thần dân của nhà vua thành thần thuộc, thần dân của lãnh chúa, có tòa án xét xử riêng những thần dân trong lãnh địa dám chống lại chúng. Những vụ xét xử còn đem lại cho lãnh chúa một khoản thu nhập lớn nhờ những món tiền phạt và tịch thu tài sản. ngoài ra lãnh chúa còn có quyền đúc tiền, thu thuế… bộ phận quân đội của lãnh chúa hoàn toàn tách khỏi sự điều động của nhà vua. Giữa các lãnh chúa thường xuyên xảy ra chiến tranh nhằm mở rộng lãnh địa, quyền lực, tài sản.

3. Đánh giá chung.

Trạng thái phân quyền cát cứ ở Tây Âu thời kỳ phong kiến có ảnh hửơng rất lớn đến tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu như ở thời kỳ đầu đứng đầu nhà nước Frăng là vua, vua coi toàn bộ lãnh thổ vương quốc là sản nghiệp của mình, các quan lại trong bộ máy nhà nước chỉ là bầy tôi giúp việc quản lý sản nghiệp đó, vua là tổng chỉ huy quân đội nắm quyền xét xử tối cao quyền thế thì đến thời kỳ phân quyền cát cứ ở Tây Âu đứng đầu nhà nước vẫn là vua nhưng quyền lực lại bị hạn chế và phân tán cho các lãnh chúa. Hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương không có sự thống nhất chặt chẽ. Mỗi lãnh địa như là một quốc gia riêng và các lãnh chúa chính là một ông vua ngự trị trên vương quốc đó.

C.KẾT LUẬN
Qua đây, có thể thấy rằng trạng thái phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản và nổi bật nhất trong thời kỳ trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu. Nó xuất hiện và phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn trung kỳ trung đại chủ yếu do chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất của các lãnh chúa, nó bao trùm và chi phối mọi lĩnh vực trong đời sống - xã hội. Qua đây càng cho thấy quyền lực của các lãnh chúa trong nhà nước phân quyền cát cứ phong kiến Tây Âu là rất lớn, lãnh chúa nắm tất cả mọi quyền lực trong phạm vi lãnh địa, nó tương đương như một ông vua ngự trị trên lãnh địa đó.

No comments:

Post a Comment