Xem thêm: Tổng hợp bài tập Luật Thương mại 2 có đáp án.
Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!
Với việc kế thừa những ưu điểm của pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, đồng thời có điều chỉnh, bổ sung những điều khoản mới cho phù hợp với bối cảnh kinh tế hiện nay cũng như tương thích với các văn bản pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã ra đời mở ra một chặng đường mới cho lịch sử phát triển của pháp luật về trọng tài thương mại ở nước ta. Tuy nhiên sau nhiều tháng thực hiện thì đã pháp luật trọng tài hiện hành đã bộc lộ những điểm còn hạn chế trên thực tế. Nghiên cứu về pháp luật trọng tài em chọn đề tài: “ Phân tích những hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Những vấn đề lý luận chung về trọng tài thương mại và pháp luật trọng tài thương mại hiện nay.
1. Khái quát về trọng tài thương mại
1.1 Khái niệm trọng tài thương mại
Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Như vậy, với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp, Trọng tài thương mại (TTTM) có thể được hiểu là phương thức mà các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho TTTM. Trên cơ sở có các tình tiết khách quan của tranh chấp, TTTM được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này có giá trị bắt buộc đối với các bên. Quy định này của Luật TTTM 2010 phù hợp Luật mẫu UNCITRAL cũng quy định: “ Trọng tài là mọi hình thức Trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức thường trực” (Điều 2).
1.2 Đặc điểm của Trọng tài thương mại
Thứ nhất, với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, Trọng tài có những đặc thù sau:
- TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba ( có thể là một hội đồng Trọng tài hoặc một Trọng tài viên duy nhất) có quyền đưa ra phán quyết. Hội đồng Trọng tài hoặc Trọng tài viên duy nhất do chính các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Lúc này Trọng tài đóng vai trò là bên trung gian, đứng giữa để giải quyết tranh chấp trê cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên.
- TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp có thủ tục tố tụng khá chặt chẽ. Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng TTTM linh hoạt và mềm dẻo hơn do các bên được tự do thỏa thuận về toàn bộ quá trình tố tụng và hội đồng Trọng tài có nghĩa vụ phải thực hiện theo đúng thỏa thuận.
- Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại TTTM là phán quyết của trọng tài viên duy nhất hoặc của hội đồng Trọng tài. Phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm và không và không có tính cưỡng chế thi hành trong khi bản án, quyết định của Tòa án lại có tính chất cưỡng chế thi hành.
Thứ hai, với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, thì TTTM có đặc điểm sau:
- Trọng tài là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, đặc điểm này thường được gắn với các Trọng tài thường trực. Mỗi Trọng tài thường trực đều có Điều lệ hoạt động riêng, có trụ sở, bộ máy giúp việc, danh sách Trọng tài viên và quy tắc tố tụng riêng của mình.
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM phát sinh từ chính sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp chứ không phải do pháp luật ấn định.
- TTTM là một cơ quan giải quyết tranh chấp độc lập với Tòa án, phán quyết của TTTM không có tính chất cưỡng chế thi hành như bản án, quyết định của tòa án. Tuy nhiên để đảm bảo giá trị pháp lý của phán quyết của TTTM, pháp luật nước ta quy định, phán quyết của TTTM nếu không được các bên đương sự tự nguyện thi hành thì có thể nhờ sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế thi hành.
1.3 Ưu điểm của Trọng tài thương mại
Thứ nhất, TTTM đảm bảo tối đa quyền tự chủ của các bên bởi TTTM không phải là phương thức giải quyết tranh chấp bắt buộc. Việc đưa tranh chấp ra Trọng tài giải quyết xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên. Các bên có quyền lựa chọn cơ quan Trọng tài, Trọng tài viên, lựa chọn hình thức Trọng tài, quy chế tố tụng Trọng tài để giải quyết tranh chấp cho mình mà không phụ thuộc vào nơi đặt Trụ sở hoặc nơi cư trú của các bên. Việc này cho phép các bên tính toán về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp.
Thứ hai: thủ tục giải quyết tranh chấp bằng TTTM đơn giản, chặt chẽ trong khuôn khổ luật định, thuận tiện, giúp giải quyết nhanh gọn vụ tranh chấp.
Thứ ba, nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng TTTM là xét xử bí mật, không công khai. Trong quá trình kinh doanh, bí quyết kinh doanh là yếu tố quan trọng, nhất là trong những lĩnh vực sở hữu trí tuệ, công nghệ cao,…nếu giải quyết tại tòa án sẽ có nguy cơ bị lộ bí mật do nguyên tắc xét xử của tòa án là xét xử công khai.
Thứ tư, với nguyên tắc chung thẩm, thời gian giải quyết vụ tranh chấp sẽ được rút ngắn, giúp các bên tranh chấp tiết kiệm được thời gian và chi phí, đồng thời làm giảm sự quá tải về số lượng vụ việc cho hệ thống tòa án.
Thứ năm, phán quyết của TTTM có tính chính xác cao, nhất là các tranh chấp có nội dung từ những vấn đề kinh tế, kỹ thuật có tính chuyên sâu.
Thứ sáu, đối với việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM, mặc dù các bên đương sự có quyền tự định đoạt cao về quá trình giải quyết tranh chấp nhưng các Trọng tài viên khi được các bên lựa chọn lại có quyền xét xử và ra quyết định một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở các quy định của pháp luật.
1.4 Nhược điểm của Trọng tài thương mại
Thứ nhất, giải quyết bằng phương thức Trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, đặc biệt là hình thức Trọng tài thường trực. Trong khi mức án phí giải quyết tranh chấp dân sự tại tòa án thấp nhất là 200.000 đồng thì phí Trọng tài tại trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam thấp nhất là 2000 USD.
Thứ hai, phán quyết của TTTM mang tính chung thẩm vừa là một ưu điểm nổi bật nhưng cũng lại là một nhược điểm, đòi hỏi quá trình giải quyết tranh chấp phải hoàn toàn chính xác, không được phép phạm sai lầm vì các bên tranh chấp không có quyền kháng cáo, kháng nghị. Điều này thực sự là một khó khăn nếu như phát hiện và muốn sửa chữa sai phạm trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, phán quyết của Trọng tài không phải lúc nào cũng được thi hành trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của tòa án. Bởi TTTM không phải là cơ quan quyền lực nhà nước nên phán quyết của TTTM không có tính cưỡng chế thi hành mà phải nhờ đến sự trợ giúp của cơ quan thi hành án.
2. Pháp luật Trọng tài thương mại ở Việt Nam
Ta có thể thấy sau nhiều năm thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đã có những hạn chế nhất định. Để khắc phục những hạn chế đó thì Luật TTTM 2010 đã ra đời và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2011. Đi kèm với Luật là Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại .Đây có thể coi là những văn bản pháp luật mới nhất tính đến thời điểm này chứa các quy định pháp lý về trọng tài thương mại ở Việt Nam.
- Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về TTTM:
Thứ nhất, các quy định chung về phạm vi nguyên tắc giải quyết tranh chấp, hình thức thẩm quyền của TTTM và sự phân định quyền giữa TTTM và Tòa án, nguyên tắc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, quy định về thỏa thuận trọng tài: kế thừa các quy định của Pháp lệnh TTTM 2003, Luật TTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng văn bản và cụ thể hóa những tình huống ý chí thỏa thuận của các bên được xem là đã được ghi nhận bằng văn bản. Khoản 2 Điều 16 Luật này giải thích rõ ý chí trung thực của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài. Đồng thời Luật cũng quy định giới hạn các trường hợp cụ thể mà thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Điều 18 Luật TTTM 2010.
Thứ ba, các quy định về tổ chức, thành lập, hoạt động của Trọng tài thường trực với các nội dung: điều kiện và thủ tục thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn và việc chấm dứt hoạt động. Những điều này được Luật TTTM ghi nhận tại các Điều 22- 23. Đặc biệt Luật mới cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện hay hoạt động tại Việt Nam theo các quy định.
Thứ tư, quy định về trọng tài viên: điều kiện trở thành trọng tài viên, quyền và nghĩa vụ. Luật TTTM 2010 không yêu cầu trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Người nước ngoài cũng có thể được chỉ định trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tín nhiệm.
Thứ năm, quy định về tố tụng trọng tài từ việc khởi kiện và thụ lý, thành lập Hội đồng trọng tài, thẩm quyền của trọng tài việc xác minh, thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,…đến phiên họp giải quyết tranh chấp, phán quyết trọng tài, thi hành và hủy phán quyết trọng tài. Luật mới đã nâng vị thế của Trọng tài lên thông qua việc cho phép Hội đồng trọng tài được thu thập chứng cứ ( Điều 47), triệu tập nhân chứng ( Điều 48), áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ( Điều 50)…Về thủ tục hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp, Luật mới cũng bổ sung quy định về nguyên tắc ra phán quyết trọng tài ( Điều 60). Về thi hành phán quyết trọng tài, pháp luật TTTM khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết của trọng tài ( Điều 65), nếu không tự nguyện thi hành thì các bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài (Điều 66).Về vấn đề hủy phán quyết trọng tài, Luật mới đã đưa ra những căn cứ cụ thể để hủy quyết định trọng tài, loại bỏ những căn cứ không rõ của pháp lệnh. Luật mới đã giới hạn quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài ( Điều 69).
Thứ sáu, quy định về tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Trước đây Pháp lệnh TTTM 2003 không quy định về vấn đề này. Luật mới dành hẳn một chương quy định cụ thể về điều kiện, hình thức hoạt động, việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, quyền và nghĩa vụ.
- Những việc pháp luật trọng tài Việt Nam đã làm được trong thời gian qua:
Pháp lệnh TTTM 2003 và mới đây là Luật TTTM 2010 là những cột mốc quan trọng đánh dấu những bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật trọng tài Việt Nam. Và thực tiễn cho thấy những năm vừa qua, việc áp dụng pháp luật về TTTM đã mang đến nhiều thành tưu đáng kể. Tiêu biểu như: các tổ chức thương mại đã được thành lập và ngày càng phát triển. Hiện nay ở Việt Nam có 7 trung tâm trọng tài kinh tế đang hoạt động (ACIAC, VIAC, HCMCAC, HCAC, CCAC, PIAC. VID.ARCE). Đối với Trung tâm trọng tài Việt Nam (VIAC). Nếu như năm 2003, VAIC mới chỉ giải quyết được có 16 vụ, thì tới năm 2004 con số này đã tăng gấp đôi lên 32 vụ, năm 2006 VIAC giải quyết được 36 vụ, năm 2008 con số này tăng lên tới 58 vụ và hết năm 2010 vừa qua, số vụ tranh chấp mà VIAC giải quyết đã lên tới 63 vụ. Như vậy, sau 7 năm áp dụng pháp lệnh trọng tài, số vụ tranh chấp được giải quyết bởi VIAC đã tăng gần 4 lần. Trong đó VIAC đã giải quyết thành công nhiều vụ tranh chấp nước ngoài. Theo số liệu thống kê mới nhất thì cho tới nay VIAC đã giải quyết tất cả 451 vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, trong đó Singapore là quốc gia có nhiều tranh chấp liên quan tới nhất, 62 vụ, chiếm 13,75 % tiếp theo là Hàn Quốc với 57 vụ, chiếm 12,64%...
Những hạn chế, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật về TTTM ở Việt Nam. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp về mức độ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp đối với 237 cá nhân, tổ chức kinh doanh thì 57,8 % ý kiến cho rằng hình thức giải quyết tranh chấp ưu tiên của họ là thương lượng, 46,8 % ý kiến ưu tiên lựa chọn tòa án, 22,8 % ý kiến là sẽ chọn hòa giải; chỉ có 16,9 % ý kiến cho rằng sử dụng TTTM.
II. Những hạn chế của pháp Luật Trọng tài hiện hành.
1. Hạn chế trong những quy định của pháp luật Trọng tài
Có thể thấy rằng pháp luật Trọng tài đã có những sửa đổi rất lớn, việc ra đời của Luật TTTM năm 2010 thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã là một bước tiến dài trong việc quy định của pháp luật về TTTM. Tuy nhiên pháp luật trọng tài, đặc biệt là những quy định của Luật TTTM 2010 còn có nhiều hạn chế, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trọng tài trên thực tế để giải quyết tranh chấp. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các doanh nghiệp chưa “ mặn mà” lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM theo pháp Luật hiện hành. Cụ thể nhưng hạn chế trong quy định của pháp luật Trọng tài thể hiện ở những điểm sau:
1.1 Về việc quy định thẩm quyền của Trọng tài
Ta thấy, với quy định trước đây chỉ có tổ chức kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh mới có quyền lựa chọn trọng tài đã gây khó khăn cho các Trọng tài thường trực và các cá nhân có nguyện vọng lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp. Với quy định của Luật TTTM mới, phạm vi thẩm quyền của trọng tài đã được mở rộng. Bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đều có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp miễn là lĩnh vực đó phát sinh theo quy định của luật. Tuy nhiên, với quy định mở như vậy mà không có hướng dẫn chi tiết các loại tranh chấp được giải quyết bằng TTTM lại là một điểm hạn chế khi áp dụng quy định của Luật vào thực tế. Nghị định 163- NĐ/CP ngày 28 tháng 7 năm 2011 đã được ban hành để hướng dẫn một số điều của Luật TTTM 2010 nhưng Nghị định cũng chưa đưa ra được những hướng dẫn cụ thể những tranh chấp nào thuộc phạm vi của trọng tài để hạn chế xung đột về thẩm quyền giữa trọng tài và tòa án.
1.2 Về quy định về tiêu chuẩn của Trọng tài viên
Tại điểm c khoản 1 Điều 20 Luật TTTM 2010 quy định : “ Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên”.Vấn đề ở đây là có nên đưa ra tiêu chuẩn Trọng tài viên khắt khe như hiện nay không? Mục đích mà các nhà làm luật và tất cả các bên liên quan muốn hướng tới là xây dựng một đội ngũ Trọng tài viên có chuyên môn cao để từ đó đẩy chất lượng hoạt động Trọng tài tốt hơn. Các nhà làm Luật hiện thực hóa quy định này bằng những quy định về tiêu chuẩn Trọng tài viên khắt khe. Tuy nhiên, việc này đã vô tình vi phạm quyền tự do lựa chọn Trọng tài viên của các bên trong tranh chấp ảnh hưởng đến việc thành lập Hội đồngTrọng tài theo đúng ý chí của các bên.
Hơn nữa, dù các nhà làm Luật đã chú ý đến vấn đề này bằng cách thêm khoản 3 vào Điều 20, song vấn đề này sinh là thế nào là trường hợp đặc biệt? Ai sẽ là người xác định trường hợp đặc biệt? Trong khi đó, Trọng tài viên là các cá nhân được các bên tin tưởng giao cho vụ tranh chấp. Với vai trò đặc biệt quan trọng nay, các bên phải lựa chọn rất kỹ càng người cầm cân nảy mực đối với vụ việc của mình. Uy tín và chất lượng của Trọng tài viên là do các bên tranh chấp thẩm định. Việc quy định tiêu chuẩn về chuyên môn đối với Trọng tài viên như vậy là thừa mà lại hạn chế số cá nhân được trở thành Trọng tài viên – đi ngược lại với mong muốn của các bên trong tranh chấp.
1.3 Về quy định sự hỗ trợ của Tòa án
Dù Luật hiện hành được đánh giá khá cao về việc xây dựng cơ chế Tòa án hỗ trợ Hội đồng trọng tài trong quá trình làm việc nhưng vẫn còn tồn tại cần được khắc phục. Đó là việc pháp luật chưa quy định cụ thể các chế tài để xử lý các cá nhân không thực hiện quyết định của Tòa án về việc thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng. Hai hoạt động này cho thấy sự hỗ trợ đáng kể của Tòa án với Hội đồng trọng tài vì nếu không có sự giúp sức của các cơ quan công quyền này, Hội đồng trọng tài khó có thể thực hiện trôi chảy công việc của mình. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Tòa án lại chỉ dừng lại ở mức có văn bản gửi các cá nhân, tổ chức có liên quan mà chưa quy định chế tài đối với cá nhân, tổ chức này nếu không thực hiện yêu cầu của Tòa án. Trong BLTTDS cũng không có quy định về vấn đề này mà chỉ có quy định về “ thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động TTTM Việt Nam”. Đây còn là một mảng để ngỏ của pháp luật, khiến cho việc giải quyết tranh chấp trong thực tế có thể gặp khó khăn, bị trì hoãn.
1.4 Về quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010
Theo đó, Điều 6 chỉ nêu khái niệm “ thỏa thuận Trọng tài không thể thực hiện được” nhưng không nêu cụ thể những trường hợp nào để làm rõ khái niệm trên. Thiếu sót này đã gây cản trở các bên trong việc áp dụng pháp luật để xác định trường hợp nào thỏa thuận Trọng tài không thể thực hiện được để họ cân nhắc trước khi xây dựng thỏa thuận Trọng tài. Về phía Nghị định 63/2001/NĐ-CP cũng không có bất kỳ hướng dẫn nào liên quan đến vấn đề này dẫn đến thực tế còn nhiều những cách hiểu khác nhau về quy định này.
1.5 Về quy định tại Khoản 8 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại 2010.
Khoản 8 Điều 71 quy định: “ Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết Trọng tài, các bên có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án. Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết Trọng tài thì phán quyết Trọng tài được thi hành”. Điều này dẫn đến một thực tế là thông thường các bên sẽ chọn Tòa án để tiếp tục giải quyết tranh chấp, bởi sau khi phán quyết Trọng tài bị hủy, các bên rất khó cùng nhau xây dựng lại một thỏa thuận khác. Lúc này, các doanh nghiệp phải xem xét, tính toán chi phí, thời gian tiếp tục theo kiện. Để tránh tình huống trên xảy ra, các bên quyết định đưa vụ kiện thẳng đế tòa án ngay từ đầu do phán quyết của tòa án luôn được đảm bảo thi hành hơn bởi sự cưỡng chế của nhà nước, một trong các bên không thể yêu cầu tuyên hủy phán quyết của tòa. Như vậy, không khác nào doanh nghiệp phải đi đường vòng để giải quyết một vụ tranh chấp đưa ra TTTM nhưng cuối cùng vẫn phải đến Tòa án giải quyết.
Sau khi phán quyết Trọng tài bị tuyên hủy, giả sử các bên thỏa thuận đưa vụ việc giải quyết bằng Trọng tài lần thứ hai thì vẫn không khác gì một vụ tranh chấp được giải quyết theo trình tự lặp đi lặp lại làm tốn kém thời gian, chi phí gấp hai lần so với việc đưa vụ việc đến Tòa ngay từ đầu.
1.6 Về quy định tại Khoản 3 Điều 50 Luật Trọng tài thương mại 2010
Khoản 3 Điều 50 Luật TTTM 2010 quy định: “ Theo quyết định của Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Hội đồng Trọng tài ấn định tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây ra để bảo vệ lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…”. Song Luật chưa tiên liệu được trường hợp một doanh nghiệp nhỏ đưa đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn khối tài sản lớn trong hợp đồng. Theo luật, doanh nghiệp này phải huy động một nguồn tài chính khá lớn tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh. Trong một thời gian ngắn, việc phải xoay sở khoản tài chính lớn là quá sức đối với doanh nghiệp này. Do đó có thể họ sẽ không đủ điểu kiện đưa yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như Luật định. Phải chăng đây chính là sự mâu thuẫn trong quy định pháp luật bởi luật đặt ra để bảo vệ quyền lợi của đương sự nhưng cũng đồng thời hạn chế không cho họ có điều kiện bảo vệ quyền lợi của mình.
1.7 Về quy định tại Điều 67 Luật Trọng tài thương mại 2010
Điều 67 chỉ quy định việc thi hành phán quyết của TTTM được thực hiện theo pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động TTTM là giải quyết các tranh chấp thương mại nên thủ tục thi hành không thể đơn thuần như các vụ việc dân sự thông thường mà cần đảm bảo tính nhanh gọn. Vì vậy quy định này dường như đã làm phức tạp hơn quá trình áp dụng phương thức giải quyết trọng tài thương mại, vốn được coi là phương thức nhanh gọn.
1.8 Về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Luật TTTM 2010 đã trao quyền được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Hội đồng Trọng tài, theo đó hội đồng Trọng tài được áp dụng 6 biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, Luật trao quyền nhưng lại “ quên” không quy định việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định thay đổi, áp dụng, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng Trọng tài. Luật cũng đã quy định cho Hội đồng trọng tài được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng do không phải là một cơ quan quyền lực, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài có thể gặp nhiều khó khăn trên thực tế.
1.9 Về quy định lưu trữ hồ sơ Trọng tài
Điều 64 Luật TTTM quy định như sau: “Hồ sơ vụ tranh chấp do Trọng tài viênụ việc giải quyết được các bên hoặc các Trọng tài viêniên lưu trữ;… lưu trữ hồ sơ Trọng tài trong thời gian là 05 năm”, nhưng với quy định các bên hoặc các Trọng tài viên lưu trữ là hết sức chung chung. Bởi “các bên” hay “Trọng tài viên” sẽ lưu trữ? Nếu cả “các bên” và “Trọng tài viên” không thực hiện việc lưu trữ thì sao? Nếu cơ quan Tòa án có thẩm quyền cần xem xét hồ sơ vụ kiện thì bên nào cung cấp? Nếu như không cung cấp cho Tòa án, thì việc chế tài sẽ như thế nào?
Ngoài ra, Luật TTTM 2010 mới ban hành mang tên Luật TTTM nhưng trong quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài, TTTM hoàn toàn có quyền giải quyết các vụ tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, lao động,.. như vậy, việc đặt tên Luật TTTM 2010 liệu có thể hiện hết thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM trong lĩnh vực này không? Đây là câu hỏi cần có sự giải đáp của các nhà làm luật.
2. Những hạn chế khi áp dụng pháp luật Trọng tài vào thực tế để giải quyết tranh chấp.
Thứ nhất, ta thấy phần lớn các tranh chấp giải quyết bằng Trọng tài ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại chủ yếu là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ ra chi phí không nhỏ để thuê Luật sư, chuyên gia am hiểu về lĩnh vực tranh chấp và pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, kết quả giải quyết tranh chấp căn cứ pháp luật Việt Nam cũng khó để các bên công nhận dẫn đến hệ quả họ có thể kiện các cơ quan tài phán quốc tế. Điều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và quan hệ giao thương của các doanh nhân Việt Nam nói riêng.
Thứ hai, Trọng tài là tổ chức phi Chính phủ nên phán quyết Trọng tài đưa ra không nhân danh Nhà nước. Điều này dễ dẫn đến lỗ hổng trong sự vô tư của Trọng tài viên khi ra phán quyết. Các nhà kinh doanh chưa tin tưởng lựa chọn Trọng tài viên bởi “ họ chưa tin tưởng vào tính độc lập, vô tư, khách quan của các Trọng tài viên. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà Trọng tài viên xét xử sai, không khách quan thì họ không biết dựa vào cơ chế nào để bảo vệ lợi ích của mình ngoài việc không thi hành phán quyết đó và khởi kiện vụ án lại từ đầu tại Tòa kinh tế”.
Thứ ba, theo pháp luật Việt Nam, nếu như phán quyết Trọng tài trong nước thi hành ngay mà không buộc phải thông qua thủ tục công nhận tại Tòa án thì phán quyết Trọng tài nước nước ngoài muốn thi hành tại Việt Nam buộc phải thông qua thủ tục công nhận mới được cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành tại Việt Nam. Quy định này đã đặt phán quyết của Trọng tài nước ngoài và Trọng tài trong nước ở hai vị thế bất bình đẳng. Mặc dù Việt Nam đã gia nhập Công ước New York 1958 nhưng trên thực tế, các cấp tòa án Việt Nam vẫn chưa xem xét thuận lợi việc công nhận pháp quyết Trọng tài nước ngoài. Trên thực tế, có những trường hợp bị đơn phải trả tiền bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn nước ngoài nhưng Tòa án Việt Nam dựa vào quy định này của Luật để từ chối công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài nhằm bảo vệ quyền lợi bị đơn nước mình. Điều này khiến các nhà đầu tư nước ngoài không thiện chí hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam bởi họ lo sợ, nếu tranh chấp xảy ra, dù phán quyết Trọng tài nước ngoài được tuyên nhưng vẫn khó thực thi tại Việt Nam khi vấp phải những quy định này.
Thứ tư, về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Trọng tài nước ngoài. Hiện nay,việc công nhận cho thi hành bản án, quyết định của TTTM nước ngoài đặt trong BLDS, BLTT DS, Luật thi hành án…Luật TTTM 2010 không có quy định về vấn đề này. Điều này có thể gây những khó khăn cho công dân nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, khi muốn tìm hiểu về pháp Luật Trọng tài của Việt Nam. Trong khi đó, pháp luật của hầu hết các quốc gia thường quy định việc công nhận và cho thi hành bản án quyết định của Trọng tài nước ngoài ngay trọng Luật Trọng tài như Pháp, Thụy Điển…
Thứ năm, do không phải là một cơ quan nhà nước nên hoạt động của TTTM không có tính quyền lực nhà nước. Điều này gây không ít khó khăn cho các trọng tài viên khi giải quyết tranh chấp cũng như khó khăn cho các thương nhân khi yêu cầu thi hành phán quyết của trọng tài. Hơn nữa, số lượng các trọng tài viên ở nước ta còn quá thưa thớt, cơ sở vật chất chưa được đầu tư thích đáng, kỹ năng giải quyết tranh chấp chưa thực sự chuyên nghiệp, công tác tuyên truyền còn hạn chế…Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ta hiện nay còn chưa có hiểu biết đầy đủ về pháp luật trọng tài, chưa thấy được những ưu việt của phương thức này. Bên cạnh đó, còn tồn tại những nguyên nhân từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thay vì một số tòa án nhận thức Trọng tài là một phương thức hỗ trợ đắc lực giúp giảm tải việc giải quyết các tranh chấp thương mại thì ngược lại trên thực tế, có Tòa án lại giành cả việc xét xử của Trọng tài, cơ quan thi hành án chưa giải quyết vấn đề thi hành quyết định trọng tài trên thực tế. Trên thực tế những tổ chức Trọng tài ở nước ta chủ yếu giải quyết các tranh chấp về hợp đồng thương mại quốc tế. Có đến hơn 95% tranh chấp hợp đồng thương mại trong nước được đưa ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết theo quy định của BLTTDS 2004. Trong khi Tòa án quá tải thì Trọng tài lại rất rỗi rãi.
3. Vụ việc cụ thể:
Đối với phương thức Trọng tài vụ việc (ad hoc), hầu như các doanh nghiệp nước ta bị thụ động khi phía doanh nghiệp nước ngoài ép phải lựa chọn, và vì muốn thực hiện được hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ nên phía Việt Nam phải chấp nhận thỏa thuận điều khoản Trọng tài vụ việc. Thông qua một vụ kiện Trọng tài vụ việc đầu tiên, ta sẽ thấy những giới hạn, khiếm khuyết của pháp Luật Trọng tài đối với Trọng tài vụ việc.
Nội dung tranh chấp của vụ kiện ( ) : Ngày 08/10/2007, Công ty A (A) và Công ty B (B) ký hợp đồng số 888/GLC về việc giao nhận thầu xây dựng hồ bơi thuộc dự án Khách sạn 5 sao Việt Nam tại tỉnh Q. Theo hợp đồng, A có trách nhiệm thực hiện xây dựng hồ bơi và trên thực tế, nhà thầu đã hoàn thành mọi công việc của mình theo quy định của hợp đồng giao nhận thầu số 888/GLC và tiến hành bàn giao đưa công trình vào sử dụng ngày 26/4/2008. Các bên cũng thống nhất rằng, A là đơn vị chịu trách nhiệm bảo hành công trình theo hợp đồng, thời gian bảo hành sẽ bắt đầu từ ngày 27/04/2008, kéo dài trong 365 ngày tiếp theo.Trong suốt thời gian bảo hành, A đã nhiều lần tiến hành sửa chữa, khắc phục các sai sót của công trình theo đúng yêu cầu, với giải pháp kỹ thuật được thống nhất giữa các bên và được các kỹ sư của B chứng nhận là đã hoàn thành công việc theo yêu cầu. Thời gian bảo hành kết thúc, theo đúng thỏa thuận của các bên về điều khoản bảo hành, A đã nhiều lần gửi thư yêu cầu thanh toán chi phí bảo hành với số tiền là 200.000.000 đồng. Dù vậy, với nhiều lý do khác nhau, qua nhiều lần đàm phán, B vẫn từ chối thanh toán dứt điểm số tiền này.Yêu cầu của nguyên đơn: Buộc B thanh toán dứt điểm cho A số tiền bảo hành là 200.000.000 đồng. Buộc B thanh toán cho A khoản tiền lãi do chậm thanh toán kể từ ngày 29/4/2009 trở về sau.
Sau khi gửi đơn kiện Trọng tài cho bị đơn là B, nguyên đơn A có thư mời Trọng tài viên 01 làm Trọng tài viên cho mình theo thư mời đề ngày 30/11/2009. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện Trọng tài; B không lựa chọn và thông báo về Trọng tài viên mà mình lựa chọn. Căn cứ Điều 26 Pháp lệnh TTTM 2003, A làm đơn yêu cầu TAND tỉnh Q chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn và đến ngày 06/04/2010, TAND tỉnh Q đã ra Quyết định chỉ định Trọng tài viên số 01/2010/QĐKDTM-ST, chỉ định Trọng tài viên số 02 làm Trọng tài viên cho bị đơn. Ngày 05/05/2010 bị đơn B làm đơn khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên số 01/2010/QĐKDTM-ST ngày 06/04/2010 với hai lý do: (i) B cho rằng, mình không ký bất kỳ hợp đồng nào với A như thông báo thụ lý mà TAND tỉnh Q đã nêu, nên việc thụ lý của tòa án là trái với quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 192 BLTTD 2004 “Người khởi kiện không có quyền khởi kiện”. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 391 BLTTDS hiện hành, B yêu cầu TAND tỉnh Q ra quyết định hủy bỏ Quyết định số 01/2010/QĐKDTM-ST ngày 06/04/2010;(ii) B cho rằng, B không nhận được đơn khởi kiện của A trước khi A có đơn yêu cầu chỉ định Trọng tài viên nên yêu cầu của A là trái với quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 168 BLTTDS và mục 7.3 Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn Điều 168 của BLTTDS. TAND tỉnh Q khẳng định: Việc chỉ định Trọng tài viên cho vụ kiện nêu trên là có căn cứ và đúng theo khoản 1 Điều 26 Pháp lệnh TTTM. Do đó, khiếu nại của B đề nghị hủy quyết định chỉ định Trọng tài viên số 01/KDTM của Tòa kinh tế TAND tỉnh Q là không có cơ sở để chấp nhận. Sau khi nhận được công văn số 28/CV-TA ngày 29/06/2010 của Chánh án TAND tỉnh Q trả lời đơn khiếu nại cho B, hai Trọng tài viên 01 và 02 đã họp và bầu Trọng tài viên 03 làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài vụ kiện A-B vào ngày 11/07/2010.
Ta thấy, Luật TTTM năm 2010 chưa dự liệu trường hợp quyết định chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn bị khiếu nại, nên chỉ quy định tại khoản 3 Điều 41 Luật TTTM:Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được các bên chọn hoặc được Tòa án chỉ định, các Trọng tài viên bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Trong trường hợp không bầu được Chủ tịch Hội đồng Trọng tài và các bên không có thoả thuận khác thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Trọng tài; và khi có sự khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên của Tòa án như trường hợp nêu trên thì trong thời hạn bao lâu, hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài vụ việc sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án? Thời hạn thực tế trong vụ kiện này là 13 ngày (từ ngày 29/06/2010 TAND tỉnh Q có công văn bác khiếu nại cho đến 11/07/2010 hai Trọng tài viên bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài) có phù hợp không? Vấn đề này, Luật TTTM vẫn còn bỏ ngỏ.
III. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trọng tài trong thời gian tới.
Luật TTTM 2010 mới ra đời đã mang đến nhiều quy định mới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của TTTM. Tuy nhiên, để đảm bảo tốt hơn vai trò hoạt động của TTTM ở Việt Nam, một số quy định của Luật TTTM 2010 cần có những quy định rõ ràng hơn.
1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật trọng tài hiện hành
1.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM
Các văn bản pháp luật hướng dẫn Luật TTTM 2010 nên giải thích theo hướng mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tôn trọng ý chí tự do thỏa thuận của các bên tranh chấp. Cụ thể, nên quy định thẩm quyền của trọng tài theo phương pháp loại trừ, mở rộng thẩm quyền của trọng tài ra cả những tranh chấp dân sự, trừ một số tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân, quan hệ hôn nhân, gia đình và thừa kế theo quy định của Luật dân sự theo quy định tại dự thảo lần 1 của Luật này. Quy định như vậy sẽ phù hợp với pháp luật chung của thế giới. Ví dụ, theo Luật Trọng tài Singapore thì trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, trừ tranh chấp về hình sự và tranh chấp HNGĐ.
1.2 Hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Pháp luật trọng tài hiện hành nên có quy định về việc thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo đại diện dự án USAID/STAR cho rằng, việc thi hành các quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như việc thay đổi, áp dụng bổ sung, hủy bỏ các biện pháp này nên thực hiện tương tự như áp dụng các biện pháp của Tòa án.
1.3 Hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Pháp luật TTTM nên bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu Tòa ám xem xét quyết địnhcủa Hội đồng trọng tài về vấn đề vô hiệu của thỏa thuận trọng tài. Cụ thể trong thời gian Tòa án xem xét để ra quyết định thỏa thuận trọng tài có vô hiệu hay không, Hội đồng trọng tài nên tạm dừng tố tụng. Bản thân trong thời gian này, dù có tiến hành tố tụng, các bên cũng khó đạt được một kết quả như mong đợi khi một bên đã không thiết tha với việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài và yêu cầu Tòa án xem xét tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hơn nữa, dù có đạt được kết quả giải quyết tranh chấp trong thời gian này, mà sau đó, Tòa án tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu, đương nhiên dẫn đến việc phán quyết của Trọng tài không có giá trị. Sau khi Tòa án có quyết định cụ thể, phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà tố tụng trọng tài tiếp tục nếu Tòa án xác định thỏa thuận trọng tài là không vô hiệu; trường hợp tòa án tuyên thỏa thuận vô hiệu thì khi đó từ việc tạm dừng tố tụng, Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Khi đó, các bên chuẩn bị tâm thế cho việc vụ tranh chấp có thể được đưa ra tòa án để giải quyết.
1.4. Hoàn thiện một số quy định về trọng tài viên
Thứ nhất, để đảm bảo nâng cao số lượng song hành với việc nâng cao chất lượng Trọng tài viên theo hướng giỏi về trình độ chuyên môn,có đạo đức nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm thực tiễn, các thương nhân có thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại muốn trở thành Trọng tài viên nên buộc tham gia một khóa học Trọng tài.
Thứ hai, các tiêu chuẩn về chuyên môn của Trọng tài viên nên được xóa bỏ trong Luật TTTM 2010. Thay vào đó, để nâng cao chất lượng đội ngũ Trọng tài viên, Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp khác.
1.5. Hoàn thiện quy định của pháp luật về trọng tài vụ việc:
Thứ nhất, Luật TTTM cần quy định về thời gian thành lập Hội đồng Trọng tài vụ việc trong trường hợp có khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Việc quy định thời hạn bao lâu hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án có ý nghĩa hết sức quan trọng về tính hợp pháp liên tục của tố tụng Trọng tài, bởi lẽ, nếu hai Trọng tài viên không thể tự mình bầu được Chủ tịch Hội đồng Trọng tài thì các bên phải đề nghị TAND có thẩm quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Trọng tài cho mình theo quy định tại khoản 3 Điều 41 Luật TTTM chứ không thể kéo dài tố tụng. Cụ thể nên quy định bổ sung: “Trường hợp có khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên cho các bên, thì trong vòng 15 ngày kể từ ngày Tòa án có thẩm quyền có văn bản giải quyết khiếu nại, hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài để giải quyết vụ kiện.”
Thứ hai, Luật TTTM cần quy định bổ sung trao cho Hội đồng Trọng tài vụ việc các thẩm quyền quyết định liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng Trọng tài. Cụ thể là bổ sung: “Hội đồng Trọng tài vụ việc được quyền quyết định các trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp nếu các bên tranh chấp không tự thỏa thuận được”. Còn nếu sự thay đổi thủ tục tố tụng của các bên về địa điểm và ngôn ngữ giải quyết tranh chấp đều hợp pháp thì nên bổ sung trong Luật TTTM như sau: “Mọi sự thay đổi về trình tự, thủ tục tố tụng Trọng tài trước và sau khi xảy ra tranh chấp đều phải được lập thành văn bản và do Hội đồng Trọng tài quyết định sự thay đổi”.
Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn áp dụng quy định: “Chủ tịch Hội đồng Trọng tài vụ việc phải thực hiện việc đóng gói và lưu trữ hồ sơ vụ kiện trong thời gian 05 năm và có trách nhiệm cung cấp cho cơ quan TAND có thẩm quyền khi có yêu cầu”.
1.6. Hoàn thiện những quy định khác của luật để phù hợp với thực tế.
Về khoản 8 Điều 71 Luật TTTM 2010 nên có hướng dẫn về tiền tài chính cần cung cấp phải tương đương với giá trị thiệt hại xảy ra mà nên có những biện pháp đánh giá đúng tình hình thực tế vụ việc cũng như tài chính của doanh nghiệp để đưa ra những con số hợp lý. Quy định này trên thực tế sẽ đảm bảo quyền lợi người bị xâm phạm, ngăn chặng bên vi phạm tẩu tán và thay đổi hiện trạng tài sản.
Ngoài ra, cần đưa ra chế tài đối với các cá nhân, tổ chức không thực hiện yêu cầu của Toà án liên quan đến hoạt động Trọng tài. Đồng thời, cũng phải có chế tài đối với cá nhân, tổ chức lưu giữ chứng cứ trong thời gian chờ đợi để giao chứng cứ cho Hội đồng trọng tài.
2. Kiến nghị các biện pháp hỗ trợ để đảm bảo việc thực thi trên thực tế pháp luật TTTM.
2.1 Về các biện pháp hỗ trợ
Thứ nhất: khuyến khích thành lập Trọng tài viên vụ việc, tạo cơ hội cho nhiều chuyên gia kinh tế tham gia hoạt động Trọng tài. Cá nhân được các bên tranh chấp tin tưởng và phù hợp với tiêu chuẩn pháp luật quy đinh đều có thể tham gia với tư cách là Trọng tài viên.
Thứ hai, cần tạo điều kiện cho Trọng tài viên nước ta tham gia hoạt động Trọng tài ở nước ngoài như tổ chức sự kiện giao lưu, hợp tác, tổ chức hội thảo nhằm trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng của Trọng tài viên.
Thứ ba, tích cực tuyên truyển phổ biến pháp luật về Trọng tài với cộng đồng doanh nghiệp, giúp họ thấy được ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bẳng TTTM so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Tạo lòng tin từ họ.
Thứ tư, nên thành lập thêm các Trọng tài thường trực để tăng tính cạnh tranh giữa các Trọng tài Thường trực trong và ngoài nước nhằm nâng cao vị thế, uy tín, thương hiệu của mình đồng thời tích cực học hỏi kinh nghiệm từ các Trọng tài thường trực nước ngoài để tăng cường hội nhập.
2.2.Về sự hỗ trợ của Nhà nước với hoạt động trọng tài
- Đảm bảo cơ chế thực hiện những quy định của Luật TTTM 2010 về sự hỗ trợ của tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án đối với TTTM. Luật TTTM 2010 nên bổ sung quy định về sự trợ giúp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đảm bảo thi hành biện pháp khẩn cấp tạm thời của TTTM trên thực tế và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước khi có yêu cầu hỗ trợ từ trọng tài.
Ngoài ra, Nhà nước cần đảm bảo phán quyết trọng tài được thi hành trên thực tế. Ta thấy, pháp luật hiện hành chỉ quy định quyền yêu cầu của bên được thi hành phán quyết của trọng tài mà không có quy định cụ thể về nghĩa vụ trợ giúp và thời hạn thực hiện việc cưỡng chế của cơ quan thi hành án đối với phán quyết của trọng tài nên các văn bản pháp luật nên quy định rõ về vấn đề này.
- Nâng cao hiểu biết của các thương nhân về hoạt động của TTTM và khuyến khích các họ giải quyết tranh chấp bằng TTTM. Luật TTTM nên tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Luật TTTM 2010 ban hành nhằm giảm tải khoảng 30% số lượng tranh chấp kinh tế cho Tòa án, chuyển sang giải quyết thông qua hệ thống trọng tài vào năm 2015.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, có thể thấy những tồn tại của Pháp lệnh TTTM 2003 đã được sửa đổi và Luật TTTM 2010 đã bổ sung những quy định mới nhằm hoàn thiện pháp Luậtvề Trọng tài ở Việt Nam. Luật TTTM 2010 ra đời dù còn một số bất cập nêu trên song không thể phủ nhận Luật TTTM 2010 đã xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi phát triển hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài hiện nay ở nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật Hà Nội, giáo trình luật thương mại tập 2. Nxb ,CAND, Hà Nội năm 2006
2. Trường đại học luật, giáo trình luật thương mại quốc tế. Nxb CAND Hà Nội 2007
3. Bộ luật thương mại 2005
4. Luật trọng tài thương mại 2010
5. Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại
6. Trần Thị Lan Chi, Thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam, Khóa Luận Tốt Nghiệp , HN, năm 2011
7. Lê Thị Vân Anh, Thực trạng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo quy định của luật trọng tài thương mại 2010, Khóa Luận Tốt Nghiệp, HN, năm 2011.
8. giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại adhoc ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp. TH.S Phan Thông Anh.
9. Đỗ Thị Phương Mai, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại, khóa luận tốt nghiệp, HN, 2011
10. Nguyễn Thị Hải, Những điểm mới của Luật trọng tài thương mại năm 2010 so với pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Khóa luận tốt nghiệp, HN, 2011
11. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com
No comments:
Post a Comment