Âm nhạc Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời, trải qua cùng bao thăng trầm biến cố của lịch sử, âm nhạc đang ngày trở thành một mặt không thể thiếu của xã hội Việt Nam hiện nay nói riêng. Nó đang vận động và có xu thế chuyển mình ngày càng nhanh, tiếp thu nhiều tinh hoa của các nền văn hóa làm phong phú thêm đời sống âm nhạc Việt. Tuy nhiên nó cũng có một mặt tối riêng biệt, bài viết này xin đi vào đánh giá về mặt đó của đời sống âm nhạc Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành và phát triển của âm nhạc Việt Nam.
Từ thời kì Hùng Vương, âm nhạc đã xuất hiện, các bằng chứng khảo cổ cho thấy từ thời kì này, cư dân Lạc Việt đã biết sử dụng các nhạc khí, các loại đàn, trống… để tạo ra âm nhạc, phục vụ đời sống. Âm nhạc thời kì này còn mang bản sắc rất nguyên thủy. Đến thời phong kiến, do sự đô hộ của Trung Quốc, nền âm nhạc Việt ít nhiều bị ảnh hưởng, nhưng chúng ta biết tiếp thu tinh hoa của nền văn hóa Trung Quốc, tạo nên một bản sắc rất riêng cho âm nhạc Việt Nam, nhiều thể loại âm nhạc mới ra đời như: chèo, tuồng, hò, xẩm…Âm nhạc, với đặc điểm có trước sự xuất hiện của chữ viết, từ lâu luôn là phương tiện để người dân thể hiện mọi cảm xúc của mình về thế giới xung quanh, dù là tình yêu đôi lứa, lòng căm thù hay sự buồn giận, chán nản. Âm nhạc ở Việt Nam còn sớm thể hiện những tư tưởng tôn giáo, đời sống tâm linh và phong tục tập quán của dân tộc. Bước vào thời kì cận đại, ở giai đoạn đầu, âm nhạc Việt Nam chứng kiến sự phát triển rầm rộ của phong trào Tân nhạc, mà sự ảnh hưởng của nó chủ yếu đến từ nước Pháp. Giai đoạn trước 1937 được xem là giai đoạn hình thành Tân nhạc Việt Nam nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là "giai đoạn tượng hình". Còn Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là "thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới".
Âm nhạc của châu Âu theo chân những người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công giáo. Các linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó người dân được làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu có ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây. Từ đầu thế kỷ 20, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng rồi qua những bộ phim nói. Những thanh niên yêu âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu chơi mandoline, ghita và cả vĩ cầm, dương cầm.
Thời kỳ này một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn các nhạc phẩm, thường được gọi là "bài tây theo điệu ta". Người tiêu biểu cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên và soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong các vở sân khấu như: Marinella trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói trái tim, Tango mystérieux trong Đóa hoa rừng, La Madelon trong Giọt lệ chung tình... Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là Hoài tình rất được ưu chuộng.
Năm 1930, trong thời gian bị tù ở Côn Đảo, nhạc sĩ Đinh Nhu đã viết ca khúc Cùng nhau đi Hồng binh. Theo Trần Quang Hải thì Cùng nhau đi Hồng binh là ca khúc tân nhạc đầu tiên của Việt Nam.
Không chỉ các nghệ sĩ, trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... mà họ yêu thích. Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka mới thu âm các bài ta theo điệu tây. Khoảng thời gian từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... mà phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto và của Mỹ như Goodbye Hawaii, South of The Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc biệt được giới trẻ yêu thích, đã có những hội Ái Tino được thành lập ở Hà Nội, Hải Phòng.
Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở Hà Nội đã tập trung cùng sáng tác. Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, ba thành viên của nhóm Tricéa đã viết nhiều ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên; Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung. Tại Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản Trên sông Hương năm 1936. Lê Thương ở Hải Phòng cũng có Xuân năm xưa năm 1936.
Giai đoạn từ 1935 tới 1938 được nhạc sĩ Phạm Duy gọi là "thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam". [sửa]Giai đoạn thành lập 1938-1945
Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của Tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Hiếu nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đoạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937 ông phổ một bài thơ của người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với Thống đốc Nam Kỳ. Viên Thống đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Pagès[1] nghe ông hát và mời ông du lịch sang Pháp để tiếp tục học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Ngược lại ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ cho đi một vòng Việt Nam ra Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musique renovée).
Tới Hà Nội vào tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó như đã cho việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn ở đây. Tại hội Trí Tri Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng Nguyễn Văn Tuyên đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng.
Tiếp đó tháng 9 năm 1938, tờ Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín khi ấy, cho đăng những bản nhạc đầu tiên Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc...
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành. Từ đầu 1939, các bản nhạc của được bán tại các hiệu sách, phần đầu hình thành Tân nhạc Việt Nam
Từ năm 1945, tân nhạc Việt Nam bắt đầu có sự phân tách. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ thủ đô và những thành phố lớn để tham gia kháng chiến. Nhưng một số vẫn ở lại trong vùng kiểm soát của Pháp hoặc có những nhạc sĩ theo kháng chiến rồi lại quay trở lại thành phố.
Với đề tài kháng chiến, ở miền Bắc, Đỗ Nhuận viết Du kích sông Thao, Nhớ chiến khu, Hoàng Vân có Hò kéo pháo, Văn Chung viết Quê tôi giải phóng, Lê Yên viết Bộ đội về làng... Ở miền trung có Bình Trị Thiên khói lửa của Nguyễn Văn Thương, Lời người ra đi của Trần Hoàn, Đoàn vệ quốc quân, Có một đàn chim của Phan Huỳnh Điểu, Du kích Ba Tơ của Dương Minh Viên... Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn như Hoàng Việt với Lên ngàn, Nhạc rừng, Nguyễn Hữu Trí với Tiểu Đoàn 307, Trần Kiết Tường với Anh Ba Hưng, Con kênh xanh xanh của Ngô Huỳnh. Một đề tài sáng tác mới nữa của các nhạc sĩ là ca ngợi Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam. Lưu Hữu Phước đã viết Chào mừng Đảng lao Động Việt Nam, Lưu Bách Thụ viết Biết ơn Cụ Hồ. Tham gia kháng chiến, Văn Cao đã sửa lời Bến xuân thành Đàn chim Việt và viết Trường ca Sông Lô, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch. Các ca khúc này đánh dấu sự ra đời thực sự của nhạc kháng chiến, hay "nhạc đỏ". Tuy vậy, ngay trong số những nhạc sĩ trên, nhiều người vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạn và đượ
c xếp vào dòng nhạc tiền chiến như Sơn nữ ca của Trần Hoàn, Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Nụ cười sơn cước của Tô Hải, Tình quê hương của Việt Lang. Tham gia kháng chiến, Phạm Duy cũng có Chiến sĩ vô danh, Quê nghèo, Bà mẹ Gio Linh. Nhưng ông cũng viết Bên cầu biên giới và bài hát bị coi là không hợp với hoàn cảnh chiến đấu khi đó và về sau ông rời bỏ miền Bắc vào Nam. Ở các vùng đô thị thuộc kiểm soát của Pháp, những nhạc sĩ vẫn sáng tác nhạc lãng mạn như Văn Giảng với Ai về sông Tương, Lâm Tuyền với Tiếng thời gian, Văn Phụng với Mơ khúc tương phùng... Lê Thương vào miền Nam viết các bản nhạc hài hước, trào phúng Hòa bình 48, Liên Hiệp Quốc. Ở Hà Nội, năm 1947 Nguyễn Đình Thi viết ca khúc Người Hà Nội. Trong giai đoạn này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951, hãng đĩa Oria đã thu một số đĩa nhựa 78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh[3], Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý những ca khúc Hội nghị Diên Hồng của Lưu Hữu Phước, Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy, Tiếng thùy dương, Hòa bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan Trường...
Sau thành công của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và được sự ủng hộ của báo chí, nhiều nhóm nhạc được thành lập và các nhạc sĩ phổ biến rộng rãi những tác phẩm của mình. Và ngay từ thời kỳ này, nhiều nhạc sĩ tài năng đã ghi dấu ấn với các nhạc phẩm trữ tình lãng mạn. Một số thuật ngữ được dùng để chỉ nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn này, phổ biến nhất là "nhạc tiền chiến". Dòng nhạc tiến chiến còn kéo dài tới năm 1954 và cả sau 1954 ở miền Nam.
Những bài hát cải cách nhanh chóng được giới trẻ sinh viên, trí thức ái mộ đón nhận, tuy vậy nó cũng gây nên nhiều ý kiến khác nhau. Các trí thức phong kiến thì chỉ trích còn giới dân nghèo thì thờ ơ. Với phong cách trữ tình lãng mạn, các ca khúc tiền chiến có lời ca mang tính văn học cao. Ngoài các ca khúc về tình yêu, chủ đề lịch sử, yêu nước là những đề tài chính của nhạc tiền chiến.
Đến thời kì giải phóng đất nước, Một lớp nhạc sĩ trẻ hơn xuất hiện với các bản tình ca mới. Khác với dòng nhạc tiền chiến thường mượn cảnh mùa thu, mưa... để nói lên tình cảm của mình, những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn như Vũ Thành An với các Bài không tên, Lê Uyên Phương với các ca khúc...
Giai đoạn này, bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng tác đều đặn những ca khúc giá trị (Cỏ hồng, Trả lại em yêu, Mùa thu chết...). Còn xuất hiện thêm những nhạc sĩ với phong cách riêng.
Năm 1965, Vũ Thành An viết ca khúc đầu tay Tình khúc thứ nhất, phổ thơ Nguyễn Đình Toàn. Ngay từ ca khúc đầu tiên này, Vũ Thành An được nổi danh. Tiếp sau đó, ông viết một loạt Bài không tên được đánh số cùng một vài ca khúc có tên như Em đến thăm anh đêm 30. Những nhạc phẩm của Vũ Thành An được yêu thích rộng rãi ở miền Nam khi đó, thường xuyên được nghe thấy trong các quán cà phê, trên sóng đài phát thanh, trong các băng nhạc.
Ngô Thụy Miên bắt đầu với Chiều nay không có em được viết năm 1963, nhưng đến với công chúng vào năm 1955. Tiếp theo, ông phổ nhạc cho một số bài thơ của thi sỹ Nguyên Sa và giành được thành công rực rỡ. Các ca khúc Niệm khúc cuối, Mắt biếc, Áo lụa Hà Đông đã ghi dấu ấn của Ngô Thụy Miên trong thời kỳ đó. Năm 1974, Ngô Thụy Miên thực hiện băng nhạc đầu tay Tình Ca Ngô Thụy Miên gồm 17 tình khúc đã được viết trong khoảng thời gian 1965 tới 1972. Với sự góp mặt của các ca sĩ danh tiếng Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan... và nhạc sĩ hòa âm Văn Phụng, cuốn băng tạo được thành công rực rỡ.
Từ Đà Lạt, đôi nghệ sĩ Lê Uyên và Phương xuất hiện mang đến cho tân nhạc những sắc thái mới với các ca khúc khắc khoải, nồng nàn. Bắt đầu từ nhạc phẩm đâu tay Buồn đến bao giờ viết năm 1960 tại Pleiku, Lê Uyên Phương với những Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta... được giới trẻ nồng nhiệt đón nhận.
Một gương mặt nổi danh nữa của dòng nhạc này là nhạc sĩ Từ Công Phụng. Khởi sự từ ca khúc đầu tay Bây giờ tháng mấy, các nhạc phẩm tiếp theo của Từ Công Phụng đều mang không khi mang mác như Lời cuối,Trên ngọn tình sầu, Mùa xuân trên đỉnh bình yên, Giọt lệ cho ngàn sau, Mắt lệ cho người... Đặc biệt sau 1975 ở hải ngoại, các ca khúc của Từ Công Phụng còn được biết đến nhiều hơn qua giọng ca Tuấn Ngọc trình bày rất thành công.
Một số nhạc sĩ khác cũng viết các tình khúc nổi tiếng rát được ưa chuộng vào thời gian này như Hoàng Nguyên với Ai lên xứ hoa đào, Cho người tình lỡ, Quốc Dũng với Đường xưa, Cơn gió thoảng, Nguyễn Ánh 9với Không, Buồn ơi xin chào mi, Văn Phụng với Yêu, Tình; Khánh Băng với Sầu đông, Vọng ngày xanh; Y Vân với Buồn, Thôi, Ảo ảnh, Anh Bằng với Khúc Thụy du, Nỗi lòng người đi; Trần Trịnh với Lệ đá;Nguyễn Văn Đông với Chiều mưa biên giới, Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp; Phạm Trọng Cầu, học ở Paris, cũng đã viết Mùa thu không trở lại...
Phạm Đình Chương cũng có Nửa hồn thương đau phổ từ thơ Thanh Tâm Tuyền rất nổi tiếng, hay Người đi qua đời tôi phổ thơ Trần Dạ Từ. Lê Trọng Nguyễn nổi danh với Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm và đặc biệt Nắng chiều, ca khúc còn được biết đến ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Hàng Trọng thành công với các bài hát theo điệu tango Ngỡ ngàng, Lạnh lùng, Tiến bước sang ngang.
Bên cạnh các tình khúc, dòng nhạc vàng cũng đặc biệt phổ biến. Với các bài hát giai điệu nhẹ nhàng, đơn giản, dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình dân. Trong hồi ký của mình[1], Phạm Duy viết: "Đầu thập niên 70 là lúc Nhạc Việt, trong phạm vi ca khúc, phát triển đến tột độ. Có sự thành công của những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến."
Vào cuối thập niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt đầu thâm nhập thị trường miền Nam. Một số thanh niên trẻ con các thương gia, các học sinh học theo chương trình của Pháp thường nghe các ca khúc của Mỹ và Pháp. Nhưng phải tới khoảng thời gian 1963-1965 thì phong trào nghe các ca khúc phương Tây này mới thực sự bành trướng qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley,The Platters... của Anh như Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones... của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida... trở thành thần tượng của giới trẻ Sài Gòn.
Đầu những năm 1960 thì nhạc trẻ trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam. Những ban nhạc trẻ kích động như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four vớiTùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane) và một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis Phương, Pauline Ngọc, Prosper Thắng, Julie Quang, Carol Kim... nổi danh với các bạn nhạc ngoại quốc hát bằng lời Anh hoặc Pháp. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ năm 1968 khuyến khích nhiều ca sĩ hát nhạc Mỹ. Nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc sĩ Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường Hải... đặt lời Việt.
Không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bạn nhạc kích động. Một trong những người đầu tiên có thể kể tới là Khánh Băng với Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi. Các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà cũng là những người đầu tiên Việt hóa thể loại nhạc này. Quốc Dũng, với nhiều ca khúc nổi tiếng, cùng với Thanh Mai tạo thành một đôi song ca được nhiều mến mộ. Ban Phượng Hoàng của Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà và ca sĩ Elvis Phương trở thành một trong nhưng ban nhạc thành công nhất của Sài Gòn giai đoạn đó.
Tới năm 1971, đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang và Nam Lộc tổ chức. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ. Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức: năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại sở thú với trên 20.000 khán giả.
Cho tới sau 1975, nhiều bản nhạc nước ngoài vẫn ăn khách trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Một vài ca khúc còn được các ca sĩ trẻ trong nước hát, như Bang bang do Phạm Duy đặt lời Việt được Mỹ Tâm hát lại vào những năm đầu thập niên 2000.
Khi cuộc chiến tranh Việt Nam ngày càng lan rộng, ở miền Nam, không chỉ có các nhạc sĩ sáng tác các bài hát ca ngợi người lính Việt Nam Cộng hòa mà còn xuất hiện nhiều ca khúc phản chiến. Người tiêu biểu nhất cho phong trào nhạc phản chiến này là Trịnh Công Sơn.
Bắt đầu từ khoảng năm 1966, những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn qua tiếng hát Khánh Ly đã chinh phục giới trẻ, đánh trúng tâm lý chán ghét chiến tranh, mong muốn hòa bình. Năm 1968, sau sự kiên Tết Mậu Thân, Trịnh Công Sơn tung ra tập nhạc Kinh Việt Nam. Năm 1969, Trịnh Công Sơn cho ra tiếp tập Ta phải thấy mặt trời, rồi sau đó là Ca khúc da vàng. Với các ca khúc Nối vòng tay lớn, Bài ca dành cho những xác người, Gia tài của mẹ... Trịnh Công Sơn kêu gọi mọi người ngừng chiến tranh, nêu lên một hình ảnh Việt Nam đau thương vì cuộc chiến.
Đến giữa thập niên 1980, các nhạc sĩ bắt đầu bỏ chủ đề "phục quốc kháng chiến" quay lại viết các bản tình ca. Ở giai đoạn này, những nhạc sĩ tiêu biểu có thể kể đến Đức Huy với "Và Con Tim Đã Vui Trở Lại", "Đừng Xa Em Đêm Nay", Trần Quảng Nam với "Mười Năm Tình Cũ", Hoàng Thanh Tâm với "Tháng Sáu Trời Mưa", Trúc Hồ với "Trái Tim Mùa Đông", Ngọc Trọng với "Buồn Vương Màu Áo", Trịnh Nam Sơn với "Dĩ Vãng", "Quên Đi Tình Yêu Cũ" ... Ngô Thụy Miên tại hải ngoại cũng có nhiều sáng tác, trong đó nổi tiếng hơn cả là Riêng một góc trời viết năm 1997. Kể từ khi trong nước đổi mới các ca sỉ & nhạc sỉ ở hải ngoại được về nước biểu diển đã tạo nên sự giao thoa (trao đổi nghệ thuật) về âm nhạc giữa trong và ngoài nước, có nhiều ca khúc trong nước được các ca sỉ hải ngoại biểu diển rất thành công và ngược lại. Nhiều ca sỉ trẻ nổi danh như : Lưu Bích, Như Quỳnh, Quang Lê, Trần Thái Hoà, Ngọc Hạ, v.v... Tuy nhiên phần nhiều ca khúc hải ngoại vẩn là nhạc ngoại quốc (lời Việt)
Vào năm 1996 bắc nguồn từ giải thưởng âm nhạc "Làn sóng Xanh" do đài tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. người đoạt giải là ca sĩ Lam Trường với ca khúc "Tình thôi xót xa" Bảo Chấn khiến cho trào lưu nhạc trẻ ra đời với hàng loạt ca khúc thành công sau đó như : Hà Nội mùa vắng nhửng cơn mưa, Bên em là biển rộng, giọt sương trên mí mắt, Hôn môi xa, Tình em ngọn nến ... góp phần đưa hàng loạt ca sỉ trẻ nổi danh như : Mỹ Tâm, Đang Trường, Cẩm Ly, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Thanh lam, Quang Linh, Quang dủng, Đức Tuấn, Tuấn Hưng, Đàm Vĩnh Hưng ...
Nhạc sỉ trẻ Hoài An đoạt giải thưởng từ cuộc thi sinh viên với bài hát "Tình thơ" với phần hoà âm mới lạ hiện đại lúc bấy giờ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc Việt Nam : Phần nhạc dạo đầu bài hát và Phần hoà âm và phối khí được chú trọng hơn so với trước đây làm cho ca khúc Việt Nam trở nên hiện đại hơn, hay hơn.
Tại Việt Nam đã xuất hiện nhiểu nhạc sỉ làm nhiệm vụ hoà âm phối khí như : Quốc Trung, Mạnh Trinh, Đức Trí, Hoài Sa ... Nghề mix nhạc (DJ) củng xuất hiện.
Bên cạnh đó dòng nhạc dân ca phát triển mạnh mẽ : "Vọng cổ buồn", "Đêm Ghành Hào nghe điệu Hoài Lang", "Quê tôi mùa nước lũ" ... thể hiện thành công nhất là ca sĩ Cẩm Ly. Vài Ca sĩ Việt Nam có hoài bão vươn ra thị trường âm nhạc thế giới và đã đạt được một số thành công ban đầu : Ca sĩ Mỹ Tâm được đài truyền hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất ; Hồ Quỳnh Hương đoạt giải Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng
Đến nay, âm nhạc Việt Nam đã phát triển thành một ngành công nghiệp đặc biệt theo xu thế thị trường, nhưng chính vì vậy mà nó đang dần có những mảng biến chất.
2. Đánh giá mặt tiêu cực của đời sống âm nhạc Việt Nam hiện nay:
Hơn chục năm qua, thị trường tự do đã đưa âm nhạc Việt Nam đi theo khá nhiều lối rẽ khác nhau. Nhưng điều mà nhiều người có thể nhận biết đến nền âm nhạc Việt Nam hiện nay là một thị trường còn thả lỏng; năng động, sôi nổi với nhiều sáng tạo mới mẻ, đa dạng nhưng trào lưu âm nhạc hiện vẫn còn lúng túng, nếu không nói là mất phương hướng; hầu hết các thần tượng ca nhạc ăn khách được công chúng biết đến nhờ những yếu tố “ngoài âm nhạc” nhiều hơn là tài năng thực của họ"... Điều đó đã ảnh hưởng lớn đến giới trẻ, làm công chúng trẻ tiếp nhận Văn hóa nghệ thuật bằng cảm tính bản năng, thiếu định hướng thẩm mỹ đúng đắn…
Nhạc thị trường đang lấn át nhạc chính thống:
Hiện nay, danh hiệu ca sĩ, nghệ sĩ đang bị lạm dụng một cách quá đà với việc bất cứ ai bước lên sân khấu cũng tự vỗ ngực cho mình là “ca sĩ”, “nghệ sĩ”. Bên cạnh đó, từ khi thị trường âm nhạc Việt Nam xuất hiện dòng nhạc teen – chính là con đẻ của dòng nhạc mạng, thì thể loại này thường xuyên ngự trị trên các kênh internet, rồi nhanh chóng lên sàn diễn. Với những ca từ dễ dãi, kết hợp với việc ăn mặc hở hang, “uốn éo” trên sân khấu, các ca sĩ ở thể loại này thi nhau lũng đoạn nghệ thuật bằng các vụ lùm xùm lẫn “scandal” như: hát nhép, ăn mặc hở hang để câu khán giả... hay tung ra những sản phẩm mà nhiều người cho là “thảm họa” âm nhạc... Nhưng hầu như sau những vụ scandal, khán giả “thì nóng mặt” trong khi hình ảnh của họ nghiễm nhiên xuất hiện với tốc độ chóng mặt ở khắp nơi, kèm theo đó là giá “cát sê” tăng vù vù.
Ở môi trường đào tạo chuyên nghiệp, mục tiêu đào tạo dường như chỉ để đáp ứng yêu cầu dạy lại cho trò những gì thầy đã học, chứ không phải cái xã hội hiện nay đang cần. Nếu không được giữ lại hành nghề trong trường, các tân cử nhân dù tốt nghiệp hạng ưu vẫn khó chen chân vào đời sống âm nhạc bên ngoài. Hơn nữa, ca sĩ chuyên nghiệp không được học kỹ năng biểu diễn sân khấu nên không cạnh tranh nổi với dàn "sao" ca nhạc thị trường tuy kém phần thanh nhạc, thậm chí không hề biết đến nhạc lý, nhưng lại mạnh về "phần nhìn". So với thù lao cao ngất ngưởng của các "sao" nhạc thị trường thì cái giá của ca sĩ nhạc chính thống chỉ là “cỏn con”.
Âm nhạc cần kinh doanh nên các chương trình showbiz bao trùm lên mọi sinh hoạt âm nhạc. Truyền hình cần kinh doanh nên ngày càng nhiều hơn các cuộc thi tìm kiếm tài năng ca nhạc theo kiểu ăn xổi, chất lượng phải chiều theo thị hiếu bình dân của doanh nghiệp tài trợ. Báo chí cũng cần kinh doanh nên không ngớt quảng bá những gì liên quan đến nhạc giải trí, kể cả thứ nhạc gây sốc kiểu nhạc nhái, nhạc chế, nhạc thảm họa... Tình trạng bát nháo các giá trị thật giả dẫn đến lệch chuẩn trong thẩm mỹ âm nhạc ở giới trẻ đang góp phần làm cô lập, chìm khuất những tài năng thật sự.
Chính những điều đó đã làm cho thị trường âm nhạc của nước ta trở nên “nghiệp dư hóa” và ảnh hưởng lớn đến giới trẻ, làm công chúng trẻ tiếp nhận Văn hóa nghệ thuật bằng cảm tính bản năng, thiếu định hướng thẩm mỹ đúng đắn…
Cùng với chiều dài lịch sử và sự phát triển của đất nước, âm nhạc cũng có những chuyển dịch và đạt được những thành tựu đáng tự hào. Giới âm nhạc xuất hiện nhiều gương mặt mới trong nhiều lĩnh vực: sáng tác, biểu diễn, đào tạo, lý luận phê bình có uy tín trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, thực tế của sự hội nhập và phát triển quá nhanh của nên kinh tế thị trường đã có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực âm nhạc. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả các khía cạnh của đời sống âm nhạc đều có chiều hướng tụt dốc, đi xuống hay suy thoái mà phải nhìn nhận một cách khách quan và thực tế ở từng khía cạnh của đời sống âm nhạc hiện nay rằng:
Mặc dù âm nhạc đỉnh cao không phát triển quá rầm rộ như các dòng âm nhạc khác, nhưng các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp với dòng nhạc hàn lâm, các Học viện không chỉ đào tạo, tổ chức được nhiều chương trình biểu diễn, giới thiệu các tác phẩm âm nhạc hàn lâm ở trong nước, quốc tế, cũng như tham gia trong nhiều chương trình biểu diễn của các dàn nhạc, nhạc trưởng nước ngoài, đi lưu diễn ở nhiều nước trên thế giới mà nhiều nghệ sĩ, giảng viên, học viên của các đơn vị nghệ thuật cũng đã giành được những giải cao trong các cuộc thi âm nhạc quốc tế.
Cùng với sự phát triển của dòng nhạc hàn lâm, bác học thì dòng nhạc dân gian cổ truyền dân tộc với 5 di sản phi vật thể là: Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Hát xoan, Quan Họ đã được Tổ chức văn hóa khoa học giáo dục Liên Hiệp Quốc – Unesco công nhận là những di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - điều đó đã cho thấy sự nỗ lực không chỉ của các nghệ nhân dân gian, những người đang năm giữ báu vật sống mà còn khẳng định sự chung sức, đồng lòng của cả tập thể những người làm công tác nghiên cứu, sưu tầm, những nhà quản lý trong việc tìm ra những biện pháp hữu hiệu để bảo tồn, phát huy những giá trị, những di sản văn hóa dân, dân tộc trong đời sống đương đại.
Nếu coi văn học, nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng là những kênh giao tiếp quan trọng kết nối con người với cộng đồng, xã hội, thì mặt khác âm nhạc còn là phương tiện hữu hiệu nhất để giáo dục thẩm mỹ, tạo dựng nhân cách và nuôi dưỡng tâm hồn con người. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại thì âm nhạc có những điểm tối và có phần đi chệch hướng, chệch khỏi trật tự xã hội, không theo thuần phong mỹ tục. Tính văn học, tính nhân văn, tính nghệ thuật đang bị đảo lộn và đôi khi đi ngược lại.
Sự đảo lộn ấy có lẽ xuất phát từ sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông đã dẫn đến sự phát triển mất cân đối trong lĩnh vực sáng tác, biểu diễn âm nhạc. Sáng tạo âm nhạc không còn dành riêng cho những người được đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp hoặc những người trưởng thành do tự học một cách bài bản, nghiêm túc mà trở thành nhạc sĩ, nghệ sĩ, mà chính nền kinh tế thị trường với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đã đẩy một bộ phận cấu thành của nền âm nhạc vượt ra khỏi chuẩn mực của đạo đức, của truyền thống dân tộc, tạo nên một dòng nhạc hỗn độn mà ở đó bao gồm (những tác phẩm mà giới chuyên nghiệp không nghe, không muốn nhắc đến) bởi rất nhiều lý do, nhiều yếu tố mà điều quan trọng là chất lượng nghệ thuật không có gì để bàn. Có thể kể ra đây hàng loạt những ca khúc mà chỉ nghe tên gọi thôi cũng đã thấy nhiều điều phải suy nghĩ như: Bà xã tôi number one, Thà rằng anh không nhìn thấy, Yêu để rồi chia tay, Giấc mơ không phải là anh v..v
Nhạc thị trường tập trung một lực lượng không nhỏ những người làm nhạc theo kiểu công nghệ như: làm nhạc bằng phần mềm máy tính, chơi nhạc cũng bằng phần mềm âm thanh cài đặt sẵn trong máy tính, nhưng nhờ công nghệ ghi âm và bằng những phần mềm chỉnh âm chuyên nghiệp, hiện đại và cả công nghệ truyền thông (PR) muôn hình vạn trạng đã khiến cho thị trường âm nhạc trở nên hỗn loạn, không đi theo chuẩn mực, đồng thời các nhà quản lý cũng không biết phải định hướng thẩm mỹ hay đưa ra phương án tối ưu nào cho những chế tài xử phạt, bởi mọi chế tài, mọi định hướng của các nhà quản lý đều đang đi sau, khi mọi thứ đã trở nên không thể vãn hồi.
Sự bùng nổ của kinh tế thị trường đã không hoàn toàn đi đúng hướng theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” và vì thế, chính sự vượt rào ấy cũng đã khiến cho sự đa dạng về lợi ích kinh tế là mặt trái của kinh tế thị trường dẫn tới sự thay đổi về nhận thức tư tưởng, thẩm mỹ. Dẫn đến sự phân hóa, chênh lệch đáng kể trong quan niệm về nhu cầu thưởng thức nghệ thuật. Cũng từ cơ chế thị trường đã nảy sinh ra một bộ phận những người làm nhạc để kiếm tiền. Họ dường như chỉ học cách kiếm tiền chứ không học cách sống, cách đối nhân xử thế mà vốn từ xưa đã trở thành đạo lý của người Việt. Một bộ phận nhỏ ấy sẵn có khả năng tiếp cận được công nghệ cộng thông tin, với những mánh khóe, chiêu trò khác người để “chơi trội” để sớm nổi danh nhờ công nghệ lăng xê.
Về phía nhạc sĩ:
Nếu như trước đây, một ca khúc ra đời không chỉ là sự trăn trở, thai nghén của người nhạc sĩ, mà nhiều khi tác phẩm hoàn chỉnh, nhiều người còn đem hát cho bạn bè nghe để mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa rồi mới đưa đến các đơn vị chức năng, và cũng phải qua biết bao khâu kiểm duyệt mới ra được với công chúng. Và họ cũng rất khiêm tốn rè rặt chứ không “nổ” như những người làm nhạc tự phong “nhạc sĩ trẻ” hiện nay. Thậm chí, có những người chẳng cần học nhạc, hoặc có học cũng chỉ là đánh trống ghi danh để dựa vào cái “ mác” là Học viện này, Học viện nọ nhằm mưu cầu danh lợi. Bởi họ cho rằng chỉ cần biết cách làm nhạc, đặt lời, cho ca sĩ thu thanh, up lên mạng, chỉ cần những tiểu xảo nhỏ trên các trang mạng xã hội thì cùng một lúc sẽ có hàng trăm, thậm chí hàng chục ngàn người truy cập. Người truy cập có thể họ thích, có thể không thích, thậm chí bức súc, có người vì tò mò xem thực hư câu chuyện ra sao? nhưng nghiễm nhiên khi 1 người clik vào trang mạng hoặc đường link đó, có nghĩa là họ đã thành công. Cứ thế, càng nhiều người truy cập thì số tiền thu về từ nhà mạng càng nhiều ( không loại trừ khả năng giữa tác giả và nhà mạng có sự ăn chia quền lợi). Họ chỉ cần túi nhiều tiền và không cần quan tâm đến công chúng, bởi nếu họ nghĩ đến điều đó, họ đã không thể đưa ra công chúng những tác phẩm thiếu tính nghệ thuật, thiếu tính nhân văn và thậm chí có những bài lời lẽ “ thô tục” khó có thể chấp nhận được.
Còn đối với ca sĩ thì sao?
Một bộ phận ca sĩ phòng trà, ca sĩ trẻ thiếu hiểu biết, hoặc cũng vì mưu sinh, một phần cũng lại do nể bạn bè, không đủ bản lĩnh, không đủ độ chín nên tặc lưỡi cho qua, ghi âm một vài bài, có một khoản thù lao cũng đỡ. Mặt khác nếu khi đưa lên mạng, được nhiều người truy cập thì họ cũng có phần thơm lây. Họ cũng chỉ nghĩ tới đó mà không nghĩ xem mình đang làm nghệ thuật, vì nghệ thuật hay chỉ coi nghệ thuật là mảnh đất màu mỡ mà may mắn, họ có thể kiếm tiền một cách dễ dàng mà không mất nhiều công sức. Chính vì thế, họ có thể làm bất cứ điều gì nhưng lương tâm vẫn không hề cảm thấy có lỗi, bởi họ chưa bao giờ từng nghĩ đến những hậu quả của nó mang lại sẽ gay tổn hại cho bản thân, cộng đồng và xã hội như thế nào?.
Riêng đối với công chúng:
Qua thực tiễn đời sống, qua công việc và qua báo chí, tôi nhận thấy: bộ phận công chúng nghe, xem những chương trình truyền hình, phát thanh, hay các liveshows ca nhạc kém chất lượng nghệ thuật có lẽ chỉ tập trung ở một bộ phận giới trẻ, mà hầu hết ở ở khu vực nông thôn, hoặc những vùng ngoại ô thành phố, một bộ phận là dân cư ở những nơi mà nhờ “bán đất” bỗng dưng trở thành “tỷ phú”, thành “ông chủ” mà bản thân cái “phông” văn hóa, kiến thức nền tảng không đủ để có thể nhận diện một cách sâu sắc và đầy đủ về mọi mặt của đời sống xã hội, về những điều cần, những thứ được và mất ngay của chính bản thân.
Đi tìm nguyên nhân
Mọi khúc mắc đều có ngọn nguồn của nó. Và với tôi thì chính sự xuống dốc không phanh của nền giáo dục Việt Nam đã góp phần không nhỏ làm cho xã hội trở nền hỗn loạn như ngày hôm nay. Giáo dục với quá nhiều những bất cập từ con người, từ giáo trình, giáo án, từ phương pháp, kỹ năng .v.v bởi mãi đi theo lối mòn, thiếu tính sáng tạo, không bắt kịp được với đời sống xã hội vốn sôi động và đầy sắc màu.
Trong thời đại khi mà chỉ cần một cái nhấp chuột là mọi thứ cần tìm, cần biết đã hiện ra trước mắt, vậy mà học trò, từ cấp 1 cho tới tận đại học, thậm chí là cao học vẫn cứ phải ngôi im phăng phắc nghe thầy giảng mãi một giáo án cũ, không thực tế, không có tính tương tác và như vậy học cho có, chứ kiến thức trao, nhận chẳng đáng là bao. Lâu dần máy tính và mạng internet đã trở thành công cụ hữu hiệu của một bộ phận giới trẻ. Họ ăn máy tính, ngủ máy tính, mọi thứ cũng từ máy tính, làm nhạc, chơi nhạc, thậm chí hát phô (chênh) chỉ cần một thao tác trên máy là mọi thứ đã trở nên hoàn hảo… chính những công cụ ấy đã khiến cho con người trở nên vô cảm, thiếu vốn sống, thiếu kỹ năng sống, thiếu sự quan sát và óc sáng tạo… nên quanh quẩn cũng chỉ nghĩ được mấy thứ ngôn từ “què cụt” không đầu, không cuối.
Nếu như giáo dục chính trị, tư tưởng thiên về lĩnh vực triết học, về lý trí, trang bị cho con người có được nhận thức đúng thế giới quan nhân sinh quan thì giáo dục thẩm mỹ làm cho con người có tư cách, đạo đức hơn và như thế mỗi cá thể sẽ góp phần làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho cuộc sống trở nên yên bình, hài hòa, con người trở nên thân thiện, tinh tế, thế giới tinh thần trở nên ổn định, cân bằng và toàn diện hơn. Tuy nhiên từ nhiều năm qua, việc định hướng hay giảng dạy môn sáng tác, lý luận phê bình hay biểu diễn nhạc cụ tại các Học viện, các trường có đào tạo âm nhạc thì còn có những điểm sáng đáng ghi nhận, nhưng riêng đào tạo thanh nhạc, nhất là nhạc trẻ, thực tế co khoa nhạc nhẹ, nhưng vẫn thiếu những giảng viên đào tạo nhạc nhẹ đúng nghĩa, bởi không giống như âm nhạc cổ điển quan trọng ở kỹ thuật thanh nhạc mà với nhạc nhẹ, ngoài kỹ thuật còn cần phải có rất nhiều yếu tố khác để có thể trở thành ca sĩ nhạc nhẹ chuyên nghiệp và bản lĩnh. Vì thế, nếu các ca sĩ thuộc dòng nhạc nhẹ hầu hết sau khi học cổ điển, có thiên hướng nhạc nhẹ thì chuyển sang hát dòng nhạc nhẹ, hoặc kết hợp. Người có trình độ nhận thức, bản lĩnh sân khấu và ham học hỏi sẽ có cơ hội khẳng định mình, còn thì dường như mờ nhạt. Chính sự mờ nhạt ấy cũng đã khiến một bộ phận chạy theo thị hiếu và hiệu ứng đám động, họ phải tự đánh bóng tên tuổi bằng các scandal, bằng các chiêu trò trên các trang mạng xã hội.
3. Đánh giá, nhận xét về mặt tiêu cực của đời sống âm nhạc Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, ở một góc khuất nào đó chúng ta vẫn thấy có những tài năng âm nhạc, những con người có “trái tim” nghệ thuật thực sự đang âm thầm học hỏi và làm việc không ngừng để hy vọng làm cho nền âm nhạc trong nước ngày một phát triển lành mạnh và tìm lại những “giá trị” mà trước đây nó từng có. Làm được những điều đó không phải một sớm một chiều mà phải có chiến lược lâu dài và đối tượng cần nhắm đến ở đây chính là công chúng trẻ. Đây là lực lượng khán giả lớn, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động phát triển VHNT, đến tư duy, khuynh hướng sáng tác, sáng tạo nghệ thuật của những người sáng tác, những nghệ sĩ biểu diễn.
Có rất nhiều cuộc tranh luận của những người trong cuộc tại các cuộc hội thảo chuyên đề nhằm tìm ra phương pháp tối ưu cho việc định hướng thẩm mỹ và thị hiếu cho giới trẻ trong việc thưởng thức nhạc trẻ hiện nay. Tại Hội nghị Ủy ban toàn quốc lần thứ 4 - khóa VIII Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, nhạc sĩ Đổ Hồng Quân, Chủ tịch Hội âm nhạc Việt Nam cũng đã nêu ra những vấn đề khó khăn của thị trường âm nhạc nước ta hiện nay và đưa ra những kiến nghị kêu gọi mọi người chung tay nhằm tìm ra hướng giải quyết tình trạng “nghiệp dư hóa” trong âm nhạc. Nhưng từ hội thảo đến thực tế là cả một con đường rất dài cần sự phối hợp và quyết tâm không chỉ của những người làm âm nhạc mà cần có sự quan tâm, hổ trợ từ phía các cơ quan chức năng, các nhà lý luận phê bình và các cơ quan thông tin đại chúng…
Trong thời đại công nghệ thông tin toàn cầu vô cùng rộng mở, thông tin, kiến thức, kho tàng âm thanh để thưởng thức là vô tận. Qua Internet, thế hệ trẻ trong mọi lĩnh vực sáng tác, biểu diễn, đào tạo và lý luận không những được tiếp cận với tinh hoa thế giới dễ dàng, mà còn có cơ hội quảng bá tác phẩm mới, trao đổi video - clip để nhận được những góp ý đa chiều từ cộng đồng mạng.
Vấn đề đặt ra ở đây là các nhà quản lý văn hóa nghệ thuật cần có định hướng, chiến lược lâu dài giúp lớp trẻ có được "bộ lọc" tốt. Ðiều kiện cần thiết và lý tưởng để nảy mầm các tài năng trẻ là có một môi trường âm nhạc trong lành. Qua đó, sẽ định hướng, chỉ rõ cái nào tốt cần khuyến khích, cái nào chưa tốt hoặc xấu cần hạn chế hoặc xóa bỏ… như thế là góp phần định hướng cho đời sống VHNT phát triển đúng và đầy đủ hơn trong tương lai.
KẾT LUẬN
Đất nước muốn phát triển, thì đời sống tinh thần của người dân phải được đảm bảo, âm nhạc là một phần hỗ trợ cho việc đảm bảo đó. Trong bối cảnh nền âm nhạc bị biến chất như hiện nay, thiết nghĩ những người làm công tác hoạch định, sáng tác, biểu diễn, ngay cả những khán giả, hãy lựa chọn đúng đắn cái hay chân thực để nghe, chứ không phải đi theo trào lưu và làm biến chất một nền âm nhạc phong phú như Việt Nam hiện nay. Có như vậy, đời sống âm nhạc Việt mới trở nên an toàn, vững mạnh thực sự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. The Intangible Heritage Lists.
No comments:
Post a Comment