08/02/2014
Bài tập cá nhân Tố tụng Hình sự - "Trong mọi trường hợp, chỉ được bắt người vào ban ngày" và "Vật chứng là tiền bạc phải được bảo quản tại Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự"
Những khẳng định sau đây đúng hay sai? Giải thích

1. Trong mọi trường hợp, chỉ được bắt người vào ban ngày.

=> Khẳng định trên là sai

Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn chặn họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Việc bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trón tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Thủ tục và thẩm quyền bắt người cũng được quy định rất rõ ràng tại Khoản 1 và 2 của điều luật này.

Khoản 3 Điều 80 bộ luật TTHS quy định: “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này” Theo điều luật có thể hiểu, để đảm bảo tính minh bạch, chính xác, việc bắt người phải được tiến hành vào ban ngày trừ các trường hợp đặc biệt được quy định tại Điều 81 (Bắt người trong trường hợp khẩn cấp) và Điều 82 (Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã ). Như vậy, việc bắt người có thể được tiến hành vào ban đêm trong một số trường hợp đặc biệt nêu trên, căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi và mức độ quan trọng của việc tiến hành các biện pháp ngăn chặn.

2. Vật chứng là tiền bạc phải được bảo quản tại Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự

=> Khẳng định trên là sai.

Vật chứng là vật thể được thu thập theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định chứa đựng các thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Theo Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, vật chứng bao gồm:

- Vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Đây là những vật hỗ trợ cho việc thực hiện tội phạm như dao, gậy, sung, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc…;
- Vật mang dấu vết tội phạm như vết máu, dấu vân tay, dấu giày, dấu cạy phá…;
- Vật là đối tượng của tội phạm mà thông qua việc tác động vào vật đó người phạm tội gây thiệt hại cho quan hệ xã hội nhất định như tài sản bị chiếm đoạt, giấy tờ giả, tiền giả…;
- Tiền bạc và vật khác không thuộc các loại trên nhưng có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội

Đặc điểm cơ bản của vật chứng thể hiện ở chỗ đây là những vật ở dạng vật chất, được nhận thấy qua các giác quan của con người. Vì vậy, tính khách quan của vật chứng rất cao nhưng cũng rất dễ bị tác động của các điều kiện tự nhiên làm thay đổi; dễ bị làm giả, làm sai lệch…

Do các đặc điểm trên nên bộ luật Tố tụng hình sự quy định thủ tục thu thập và niêm phong, bảo quản vật chứng rất cụ thể, chặt chẽ. Vật chứng phải được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng khi thu thập để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng. Mục đích chính của việc bảo quản là bảo vệ giá trị chứng minh của vật chứng đồng thời bảo quản cũng nhằm bảo vệ giá trị vật chất của vật chứng. Trình tự, thủ tục niêm phong, bảo quản các loại vật chứng khác nhau được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 75 bộ luật tố tụng hình sự như sau:

a) Đối với vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án;

b) Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại ngân hàng hoặc các cơ quan chuyên trách khác;
 
c) Đối với vật chứng không thể đưa về cơ quan tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;

Như vậy, theo quy định của Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì các vật chứng là tiền bạc phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay đến ngân hàng hoặc cơ quan chuyên trách khác để bảo quản. Trong quá trình giải quyết vụ án, đối với những vật chứng nào chưa được xử lý sẽ được chuyển giao cùng với hồ sơ vụ án. Vật chứng là tiền gửi vào kho bạc thì sẽ được chuyển từ tài khoản của cơ quan tiến hành tố tụng này sang tài khoản của cơ quan tiến hành tố tụng khác. Nhưng toàn bộ số tiền này chỉ còn mang ý nghĩa về mặt giá trị mà không mang ý nghĩa là vật mang dấu vết tội phạm. Trên thực tế hiện nay có rất nhiều vụ án có vật chứng là tiền với số lượng lớn như trong các vụ án tham ô tài sản, đưa hối lộ, nhận hối lộ…thì cách bảo quản các vật chứng như thế này giúp cho việc thi hành án được thuận lợi hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, NXB CAND, HN 2011
2. Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nếu bạn muốn download không mất phí, vui lòng điền thông tin và tên bài tập vào form dưới đây.

No comments:

Post a Comment