Đề bài số 6: Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về hình thức xử phạt vi phạm hành chính và chỉ ra sự kế thừa, phát triển của các quy định này so với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
MỞ ĐẦU
Luật hành chính là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Xử lí các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trật tự quản lí hành chính hay nói ngắn gọn là hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là một trong những nội dung của các quan hệ xã hội mà luật hành chính điều chỉnh.
Vi phạm hành chính cũng như mọi hành vi trái pháp luật khác đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quan hệ xã hội được pháp luật nói chung và luật hành chính nói riêng bảo vệ. Để pháp luật được đảm bảo tôn trọng và thực hiện một cách triệt để thì các hành vi vi phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Xã hội càng phát triển tình hình vi phạm hành chính diễn ra càng gia tăng, đa dạng và phức tạp cả về số lượng cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Chính vì thế cần có các hình thức xử phạt vi phạm hành chính phù hợp với tình hình thực tế để bảo vệ trật tự pháp luật, không ngừng nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật hay nói cách khác phải được luật hóa để trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc quản lí hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, để thực hiện một cách hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thì hệ thống pháp luật cần phải được không ngừng hoàn thiện. Chính vì lí do này mà em xin chọn đề tài: “Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về hình thức xử phạt vi phạm hành chính và chỉ ra sự kế thừa, phát triển của các quy định này so với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lí luận chung
1. Khái niệm vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, hình thức xử phạt vi phạm hành chính
1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng.
Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Định nghĩa này lần lượt được sửa đổi trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002. Và theo quy định của pháp luật hiện hành, Luật xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua năm 2012 định nghĩa: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.”
1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Theo định nghĩa tại khoản 2 Điều 2 Luật xử lí vi phạm hành chính, Xử phạt vi phạm hành chính được hiểu là: “việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.”
Hoạt động xử phạt hành chính có những đặc điểm cụ thể sau:
• Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, vi phạm hành chính là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính.
• Xử phạt hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Luật xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật khác có quy định về xử phạt hành chính quy định cụ thể các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức độ xử phạt hành chính mà họ được phép áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
• Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
• Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm hành chính ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
1.3. Khái niệm hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính được hiểu là các biện pháp cưỡng chế nhà nước áp dụng đối với cá nhân hoặc tổ chức thực hiện vi phạm hành chính nhiều lần. Việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính sẽ đặt ra trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm hành chính. Trách nhiệm pháp lý này là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể vi phạm hành chính phải gánh chịu trước nhà nước. Hậu quả pháp lý bất lợi đó có thể là sự thiệt hại về tài sản hoặc tinh thần hay bị hạn chế về các quyền yêu cầu pháp lý của chủ thể.
Qua hình thức xử phạt vi phạm hành chính, nhà nước thể hiện mức độ cưỡng chế đối với chủ thể vi phạm hành chính, đó là: thể hiện sức mạnh cưỡng chế xuất phát từ tính tổ chức quyền lực nhà nước, được xác định bởi pháp luật và chỉ được áp dụng bởi các chủ thể có thẩm quyền, trong những trường hợp do pháp luật quy định.
Theo pháp luật hiện hành, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính gồm:
• Cảnh cáo
• Phạt tiền
• Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
• Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
• Trục xuất
II. Các quy định của pháp luật hiện hành về hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Sự kế thừa và phát triển của các quy định này so với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
1. Cảnh cáo
1.1. Quy định của pháp luật hiện hành
Hình thức phạt cảnh cáo được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 21 và cụ thể tại Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính. Theo Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định:
“Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.”
Từ đây ta có thể nhận thấy chủ thể bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo có thể chia làm 2 loại: một là cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo; hai là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện mọi hành vi vi phạm hành chính.
Như vậy, chỉ có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc tổ chức vi phạm hành chính khi có đủ các điều kiện sau:
• Thứ nhất, hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được pháp luật quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Điều này đồng nghĩa nếu hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện không được pháp luật quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo mà quy định chỉ có thể bị áp dụng hình thức xử phạt khác (như phạt tiền) thì không được phép áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.
• Thứ hai, việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ được thực hiện khi đó là vi phạm không nghiêm trọng và có tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật. (cụ thể ở đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 9 Luật xử lí vi phạm hành chính.)
1.2. Sự kế thừa và phát triển
Điều 13 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 có quy định:
“Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.”
So với Điều 13 của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính, ta có thể nhận thấy, Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính đã thay cụm từ “vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu” bằng cụm từ: “vi phạm hành chính không nghiêm trọng” và bổ sung thêm cụm: “theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo”. Có thấy ở quy định mới có sự phát triển hơn, luật không giới hạn ở số lượng, nghĩa là chỉ xử phạt cảnh cáo đổi với vi phạm lần đầu mà chỉ giới hạn về tính chất, mức độ vi phạm “không nghiêm trọng”. Bên cạnh đó, luật còn bổ sung thêm hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt cảnh cáo nếu hành vi đó được quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Sự thay đổi này đã khắc phục tính cứng nhắc của quy định cũ, đồng thời làm chặt chẽ hơn luật mới. Chỉ những hành vi có quy định áp dụng hình thức xử phạt cảnh cảo mới được phạt cảnh cáo, những hành vi không có quy định áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo thì không được phép phạt cảnh cáo. Quy định này khẳng định nguyên tắc pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, góp phần tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.
2. Phạt tiền
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành
Phạt tiền là hình thức xử phạt chính được quy định tại Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Khoản 1 Điều 23 quy định:
“Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật này.
Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật tự, an toàn xã hội.”
Bên cạnh việc quy định chung về mức phạt tiền tại khoản 1 Điều 23, Luật xử lí vi phạm hành chính còn quy định về mức phạt tối đa trong các lĩnh vực quản lí nhà nước căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm. Ví dụ như:
• Phạt tiền đến 30.000.000 đồng nếu vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; bạo lực gia đình; lưu trữ; tôn giáo; thi đua khen thưởng; hành chính tư pháp; dân số; vệ sinh môi trường; thống kê.
• Phạt tiền đến 40.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp; hợp tác xã; giao thông đường bộ; giao dịch điện tử; bưu chính.
• Phạt tiền đến 75.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: quốc phòng, an ninh quốc gia; lao động; dạy nghề; giao thông đường sắt; giao thông đường thủy nội địa; bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội.
• Phạt tiền đến 150.000.000 đồng áp dụng cho hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực: quản lí giá, kinh doanh bất động sản; khai thác; sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý, phát triển nhà và công sở; đấu thầu; đầu tư.
• Phạt tiền đến 200.00.000 đồng khi vi phạm hành chính trong lĩnh vực: sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả.
…
Việc lựa chọn, áp dụng mức tiền phạt đối với người vi phạm phải trong khung phạt cụ thể được văn bản pháp luật quy định cho loại vi phạm đã thực hiện theo hai cách: Khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
Ngoài ra pháp luật cũng quy định về việc lựa chọn, áp dụng mức tiền phạt đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính có những nét đặc thù riêng biệt. Cụ thể: Người từ đủ 14 tuổi đến dươics 16 tuổi vi phạm hành chính chỉ bị phạt cảnh cáo, không bị phạt tiền; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 22 Luật xử phạt vi phạm hành chính.
2.2. Sự kế thừa và phát triển
So với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2001, 2008) ta có thể thấy điểm tiến bộ rõ rệt của chế định phạt tiền trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Điểm đầu tiên có thể nhận thấy là ở số lượng điều luật. Nếu như trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 chế định phạt tiền chỉ được quy định trong 1 điều luật (Điều 14) bao gồm cả quy định chung về mức phạt tiền và mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lí nhà nước thì đến Luật xử lý vi phạm hành chính chế định này được tách ra làm 2 điều luật riêng biệt (Điều 23, Điều 24). Điều 23 quy định về chung về mức phạt tiền, Điều 24 quy định về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lí nhà nước.
Điểm tiến bộ rõ rệt nhất là nội dung của các điều luật. Ở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổi sung năm 2007, 2008) phần quy định chung về mức phạt tiền chỉ quy định: “Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; còn Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 không chỉ quy định mức phạt tiền chung mà còn cụ thể hơn là chia ra mức phạt tiền trong xử phạt hành chính đối với cá nhân và đối với tổ chức. Đối với cá nhân là từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; đối với tổ chức là từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng. Không chỉ quy định mức phạt riêng cho cá nhân và tổ chức mà mức độ phạt tiền cũng lớn hơn rất nhiều so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002. Bên cạnh đó, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 còn quy định thêm việc tăng mức xử phạt đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương (Đoạn 2
Khoản 1 Điều 23) cùng với đó là việc quy định cụ thể về thẩm quyền của Chính phủ trong việc quy định khung tiền phạt, mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm hành chính (khoản 2 Điều 23); thẩm quyền của Hội đồng nhân dân trong việc quyết định khung tiền phạt, mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm trong các lĩnh vực quy định tại đoạn 2 khoản 1 điều 23.
Ta cũng có thể nhận thấy có sự thay đổi trong quy định mức phạt tối đa cho hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước. Nhìn chung, mức tiền phạt tối đa cho các hành vi vi phạm đều tăng, ví dụ như hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội theo Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) bị phạt tối đa đến 30.000.000 đồng thì theo Luật xử lí vi phạm hành chính, hành vi này sẽ bị phạt tối đa đến 40.000.000 đồng; tương tự, vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy theo Pháp lệnh năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) bị phạt tối đa đến 30.000.000 đồng, còn theo Luật xử lí vi phạm hành chính sẽ bị phạt tối đa lên đến 50.000.000 đồng. Mặt khác, Luật xử lí vi phạm hành chính còn bổ sung thêm mức phạt tối đa cho hành vi vi phạm hành chính trong nhiều lĩnh vực khác mà Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi, bổ sung chưa quy định, như: sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam; quản lú hạt nhân và chất phóng xạ, năng lượng nguyên tử,…
Còn nhiều điểm tiến bộ và phát triển của Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 so với Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) nhưng trong giới hạn dung lượng, phạm vi bài tập, em chỉ xin nêu ra một số những điểm tiến bộ cơ bản trên.
3. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
3.1. Quy định của pháp luật hiện hành
Theo khoản 1 Điều 25 Luật xử lý vi phạm hành chính thì: “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.”
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề do những người có thẩm quyền được pháp luật quy định áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm. Pháp luật quy định rõ ai có thẩm quyền được tước quyền sử dụng những loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề nào. Trong trường hợp xử lí vụ việc vi phạm hành chính nếu phát hiện giấy phép, chứng chỉ hành nghề cấp không đúng thẩm quyền hoặc giấy phép có nội dung trái pháp luật thì người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành thu hồi ngay đồng thời báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết.
3.2. Sự kế thừa và phát triển
Tại quy định về Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, Luật xử lí vi phạm hành chính có quy định thêm về nội dung đình chỉ hoạt động có thời hạn (đây là nội dung mà Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi, bổ sung chưa đề cập tới). Song song với việc bổ sung nội dung này, Luật còn quy định cụ thể trường hợp nào thì cá nhân, cơ quan có thẩm quyền được phép đình chỉ hoạt động có thời hạn (Ví dụ như tại điểm a khoản 2 Điều 25: “Đình chỉ một phần hoạt động gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép.”)
Luật cũng đã khắc phục được điểm hạn chế của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ở việc quy định thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Cụ thể: tại khoản 3 điều 25 quy định thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, thời hạn đình chỉ hoạt động từ 01 tháng đến 24 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành.
4. Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
4.1. Quy định của pháp luật hiện hành
Điều 26 Luật xử lí vi phạm hành chính quy định: “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiên có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiệm trong do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức.”
Như vậy, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt quyết định áp dụng biện pháp tịch thu để sung vào công quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa, tiền bạc… dùng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính mà có. Thẩm quyền, thủ tục tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được pháp luật quy định cụ thể.
4.2. Sự kế thừa và phát triển
Có thể thấy sự phát triển của chế định này trong Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 là ở chỗ: Luật quy định tịch thu tang vật, phương tiện có liên quan đến vi phạm hành chính chỉ áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức. Đây là nội dung mà Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính chưa đề câp tới. Mặt khác, Luật còn dành ra riêng một điều luật (Điều 82) để quy định về việc xử lí tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, như quy định về việc xử lí đối với từng loại tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu (tang vật vi phạm là tiền Việt Nam, ngoại tệ xử lí khác so với giấy tờ, tài liệu, chứng từ liên quan đến tang vật, phương tiện vi phạm.); quy định về thủ tục xử lý, thời hạn xử lí, chi phí lưu kho, phí bến bãi, phí bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm, phí bán đấu giá…
5. Trục xuất
Điều 27 Luật xử lí vi phạm hành chính quy định:
“1. Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Chính phủ quy định chi tiết việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất.”
Trục xuất là việc buộc người nước ngoài vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt Nam phải rời khỏi Việt Nam. Trục xuất vừa là hình phạt chính vừa là hình thức phạt bổ sung. Trục xuất là hình thức phạt chính khi được áp dụng độc lập hoặc áp dụng cùng với hình thức phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Hình thức này là hình thức phạt bổ sung khi được áp dụng kèm theo hình thức phạt chính khác.
KẾT LUẬN
Vi phạm hành chính là một vi phạm pháp luật mang tính nguy hiểm cho xã hội, đặc biệt trong giai đoạn nước ta đang trong quá trình đổi mới thì việc áp dụng đúng pháp luật nói chung và pháp luật về xử phạt hành chính nói riêng sẽ góp phần tích cực vào quá trình đổi mới đất nước, bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội, tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước. Việc quy định cụ thể, chi tiết về các hình thức xử lý vi phạm hành chính góp phần quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Các hình thức xử lý vi phạm hành chính là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các cơ quan có thẩm quyền trong quản lí hành chính nhà nước. Việc tuyên truyền về pháp luật nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng cho người dân là một việc làm cần thiết. Nó không chỉ nâng cao hiểu biết của người dân về pháp luật mà còn giáo dục người dân biết những điều cấm của pháp luật để không phạm vào những điều cấm đó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công An nhân dân.
2. Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012
3. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002.
4. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 04/2008/UBTVQH12 ngày 2 tháng 4 năm 2008.
5. Luận văn tốt nghiệp: Hoàn thiện pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, Ngô Thị Minh Hà, 2011.
Cảm ơn bạn Chu Hồng Thủy - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment