20/10/2015
Hoàn thiện quy định của BLTTHS về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự - Bài tập học kỳ Thủ tục đặc biệt trong Tố tụng Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (viết tắt là BLTTHS) đã quy định thủ tục rút gọn (sau đây viết tắt là TTRG) tại Chương XXXIV gồm 07 điều từ Điều 318 đến Điều 324 bao gồm các vấn đề phạm vi, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn và thủ tục áp dụng. Nhìn chung, quy định về TTRG trong BLTTHS đã đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp cũng như kế thừa các hướng dẫn về TTRG trong các văn bản pháp luật trước đó. Theo đó, các quy định về TTRG trong BLTTHS đã đơn giản về thủ tục, rút ngắn về thời gian giúp giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng mà trực tiếp là quyền của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, thực tế, số lượng các vụ án được giải quyết theo TTRG không đáng kể so với số vụ án mà các các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết hàng năm. Vì vậy, để góp phần phát huy ý nghĩa, vai trò của TTRG trong giải quyết các vụ án hình sự, cần thiết phải hiểu rõ quy định của BLTTHS về TTRG; những vướng mắc, bất cập qua thực tiễn áp dụng; những yêu cầu cần phải đảm bảo khi xây dựng quy định TTRG trong tố tụng hình sự và đề xuất kiến nghị hoàn thiện thủ tục này. Vậy nguyên nhân của tình trạng này do đâu em xin được lựa chọn đề bài: “Hoàn thiện quy định của BLTTHS về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự” để làm rõ vấn đề này.

I. Quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 về thủ tục rút gọn

1. Khái niệm thủ tục rut gọn.

Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự được áp dụng với những vụ án về tội ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giảm, chứng cứ rõ ràng’ người thực hiện hành vi bị bắt quả tang, có căn cước lai lịch rõ rang. Thủ tục này có sự rút ngắn về thời gian, đơn giản về cách thức tiến hành nhằm giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm kịp thời, hiệu quả; đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự.

2. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn

Theo quy định tại Điều 318 BLTTHS năm 2003 thì, “Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này nhưng không trái với những quy định của chương này”. Xuất phát từ mục đích của việc áp dụng TTRG là rút ngắn thời gian giải quyết vụ án; tăng cường hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, giúp cơ quan tiến hành tố tụng tập trung giải quyết các vụ án phức tạp; tiết kiệm thời gian, kinh phí của cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; khắc phục án tồn đọng cho nên phạm vi áp dụng TTRG chỉ áp dụng ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm mà không áp dụng đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Bởi vì, khi vụ án xét xử ở giai đoạn phúc thẩm, xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm thì vụ án cần được xem xét thận trọng nên cần có thời gian để nghiên cứu, đánh giá toàn diện các tình tiết của vụ án.

3. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn.

Theo Điều 319 BLTTHS, việc áp dụng TTRG phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: (1) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; (2) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; (3) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng và (4) Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Chỉ khi nào đảm bảo tất cả các điều này thì TTRG mới được áp dụng. Nếu thiếu 01 trong 04 điều kiện này thì vụ án phải được giải quyết theo thủ tục chung.

3.1. Về điều kiện “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang”

Theo Điều 82 BLTTHS, bắt người phạm tội quả tang là trường hợp người đang thực tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Trong đó, người đang thực hiện tội phạm là trường hợp người phạm tội đang thực hiện hành vi được mô tả trong một cấu thành tội phạm cụ thể thì bị phát hiện; người bị phát hiện ngay sau khi thực hiện tội phạm là trường hợp vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp hoặc đang cất giấu phương tiện, công cụ phạm tội, đang xoá dấu vết của tội phạm … thì bị phát hiện và bị bắt giữ; người thực hiện hành vi phạm tội bị đuổi bắt là trường hợp người đó đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Khi bắt người phạm tội quả tang, thông thường người phạm tội thừa nhận tội đã thực hiện; chứng cứ đầy đủ, rõ ràng; những người tham gia tố tụng được xác định đầy đủ nhất là những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án. Cho nên, việc giải quyết những vụ án mà người phạm tội bị bắt quả tang sẽ đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án.

3.2. Về điều kiện “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”. 

Sự việc đơn giản được hiểu là những vụ án có những tình tiết không phải mất nhiều thời gian để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh. Việc xác định các tình tiết của vụ án được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng. Chứng cứ rõ ràng là những chứng cứ chứng minh nhanh chóng, chính xác các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự như: hành vi phạm tội xảy ra; thời gian, địa điểm phạm tội, người thực hiện tội phạm; lỗi của người thực hiện tội phạm; những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Đồng thời, những chứng cứ này được thu thập tương đối dễ dàng, đầy đủ ngay từ đầu. Thông thường, chúng có thể được xác định thông qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người tham gia tố tụng có mặt tại nơi xảy ra tội phạm và vật chứng được thu thập tại hiện trường.

Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng phải được thể hiện trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Nếu trong quá trình đó, mặc dù đã áp dụng TTRG nhưng khi vụ án có những tình tiết phức tạp cần phải có thời gian dài để điều tra, xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ thì phải hủy bỏ việc áp dụng TTRG và vụ án phải được giải quyết theo thủ tục chung.

3.3. Về điều kiện “tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng”

Theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (viết tắt là BLHS), tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 3 năm tù.

Việc quy định điều kiện này sẽ giới hạn các loại tội phạm có thể áp dụng TTRG, tránh sự tùy tiện của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Đồng thời, do hậu quả mà loại tội phạm này gây ra cho xã hội là không lớn, trách nhiệm pháp lý (chủ yếu là trách nhiệm hình sự) đối với người phạm tội cũng không cao cho nên việc điều tra, truy tố, xét xử có thể tiến hành nhanh chóng, ít có khả năng xảy ra sai sót, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng, nhất là người phạm tội.

Khi đánh giá điều kiện này để quyết định áp dụng TTRG đối với những điều luật vừa quy định tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng thì cơ quan, người tiến hành tố tụng cần phải xem xét kỹ quy định về cấu thành cơ bản cũng như những tình tiết định khung cấu thành tăng năng như: tình tiết thuộc về nhân thân, tiền án, tiền sự, đối tượng tác động của tội phạm… để xác định hành vi phạm tội thuộc vào khoản nào của Điều luật. Tránh ban hành quyết định áp dụng TTRG rồi phải hủy bỏ, giải quyết vụ án theo thủ tục chung do vi phạm điều kiện này.

3.4. Về điều kiện “người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng”.

Đây là điều kiện thuộc về đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự, nhân thân của người phạm tội được hiểu là tổng thể các đặc điểm có nghĩa về mặt xã hội của người thực hiện hành vi phạm tội như: giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc, thành phần xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện sinh sống, hoàn cảnh gia đình, quá trình hoạt động chính trị, xã hội, tính tình, tác phong, tiền án, tiền sự… Các đặc điểm này cần được cân nhắc khi giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự như: trách nhiệm hình sự (cấu thành tội phạm, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, biện pháp tư pháp…); vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (nghĩa vụ bồi thường)... Cho nên, trong vụ án hình sự, muốn xử lý nghiêm minh hành vi phạm tội của người phạm tội cần phải làm rõ căn cước, lai lịch của họ.

Do vụ án được giải quyết theo TTRG rút ngắn về thời gian giải quyết vụ án nên căn cước, lai lịch của người phạm tội phải dễ dàng xác định, không có những yếu tố phức tạp để tránh tốn thời gian điều tra, xác minh làm rõ dẫn đến vi phạm thời hạn giải quyết vụ án.

4.  Về thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn.

Theo khoản 1 Điều 320 BLTTHS, sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện áp dụng TTRG thì Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng TTRG.

Với quy định này, cơ quan có thẩm quyền áp dụng TTRG là Viện kiểm sát cùng cấp với Cơ quan điều tra đã ban hành quyết định khởi tố vụ án. Đồng thời, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng TTRG trong 02 trường hợp: một là theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc hai là tự mình áp dụng TTRG nếu qua hoạt động kiểm sát thấy rằng vụ án có đủ điều kiện áp dụng TTRG nhưng Cơ quan điều tra không áp dụng.

Việc quy định thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà ở đây là kiểm sát hoạt động xử lý tin báo về tội phạm, khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra. Đặc thù của TTRG là rút ngắn thời gian giải quyết vụ án nên dễ ảnh hưởng đến quyền lợi của người phạm tội. Cho nên, để đảm bảo khách quan, hạn chế sự tùy tiện của Cơ quan điều tra, thẩm quyền này được trao cho Viện kiểm sát.

Theo khoản 2 Điều 320 BLTTHS, quyết định áp dụng TTRG được gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành các hoạt động tố tụng phục vụ cho việc điều tra, truy tố. Bên cạnh đó, quyết định này còn phải được gửi cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng TTRG. Quy định này nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền lợi của người phạm tội. Bởi vì, mục đích của việc áp dụng TTRG nhằm phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là chính (chủ yếu là tránh tồn đọng án, bớt chi phí tiến hành các hoạt động tố tụng), trong khi đó, các điều kiện áp dụng TTRG, không có điều kiện phải có sự chấp nhận áp dụng của người phạm tội.

Theo khoản 3 Điều 320 BLTTHS, trong trường hợp không đồng ý với việc áp dụng TTRG, người phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng TTRG. Thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng TTRG và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quy định này nhằm đảm bảo việc áp dụng TTRG là đúng đắn, tránh sự tùy tiện khi áp dụng.

5.  Về điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn.

5.1. Về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử

Theo quy định tại các Điều 321, 323 và 324 BLTTHS, thời hạn tiến hành các giai đoạn tố tụng điều tra, truy tố, xét xử ngắn hơn theo thủ tục chung. Theo đó, thời hạn tiến hành tố tụng theo TTRG không quá 30 ngày. Trong đó, thời hạn điều tra không quá 12 ngày; thời hạn truy tố không quá 04 ngày và thời hạn xét xử không quá 14 ngày (thời hạn chuẩn bị xét xử là 07 ngày và thời hạn mở phiên tòa từ khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử là 07 ngày). Việc quy định thời hạn tố tụng của từng giai đoạn tố tụng ngắn hơn so với thủ tục chung xuất phát từ bản chất của TTRG là rút ngắn thời gian giải quyết vụ án với các điều kiện áp dụng nhất định. Cho nên, thời hạn tiến hành tố tụng phải đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời.

Nhìn chung, thời hạn tố tụng mà BLTTHS quy định đối với TTRG đảm bảo cho việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thuộc loại tội ít nghiêm trọng; điều kiện hoàn cảnh xảy ra tội phạm; khối lượng công việc của cơ quan, người tiến hành tố tụng; cơ sở vật chất phục vụ cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng; năng lực của cơ quan thực thi pháp luật.

5.2. Về các hoạt động trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử

* Đối với giai đoạn điều tra:

Theo Điều 321 BLTTHS, việc điều tra theo TTRG chỉ có điểm khác biệt lớn so với điều tra theo thủ tục chung là khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và không được gia hạn thời hạn điều tra.

Do tính chất của vụ án được giải quyết theo TTRG tương đối đơn giản, chứng cứ chứng minh các tình tiết của vụ án phần lớn đã được thu thập khi phát hiện tội phạm và chủ yếu được phản ánh trong biên bản bắt người phạm tội quả tang nên hoạt động điều tra được tiến hành tương đối dễ dàng cho nên khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không cần phải làm bản kết luận điều tra mà chỉ cần ra quyết định đề nghị truy tố đề nghị Viện kiểm sát truy tố. Nội dung của quyết định đề nghị truy tố theo TTRG tương đối đơn giản, ngắn gọn so với nội dung của kết luận điều tra.

Tuy nhiên, khó khăn của Cơ quan điều tra tiến hành hoạt động điều tra theo TTRG là mặc dù, thời gian điều tra rút ngắn nhưng để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh các tình tiết của vụ án, Cơ quan điều tra vẫn tiến hành các hoạt động tố tụng như thủ tục chung. Cho nên, Cơ quan điều tra, Điều tra viên phải chủ động, tích cực tiến hành các hoạt động điều tra để hoàn thành hồ sơ, tránh vi phạm thời hạn điều tra.

* Đối với giai đoạn truy tố:

Không như giai đoạn điều tra, Điều 323 BLTTHS quy định rõ thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Theo đó, trong thời hạn truy tố, Viện kiểm sát có quyền ra một trong những quyết định sau đây: (1) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố; (2) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (3) Tạm đình chỉ vụ án hoặc (4) Đình chỉ vụ án.

Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều 323 BLTTHS thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng TTRG và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Bởi vì, khi đó, bản chất của vụ án đã trở nên phức tạp, không đảm bảo điều kiện áp dụng TTRG.

* Đối với giai đoạn xét xử:

Theo Điều 324 BLTTHS, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định: (1) Đưa vụ án ra xét xử; (2) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (3) Tạm đình chỉ vụ án hoặc (4) Đình chỉ vụ án.

Trong trường hợp Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án.

Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung. Cho nên, thành phần Hội đồng xét xử; trình tư, thủ tục tại phiên tòa; việc hoãn phiên tòa; sự có mặt của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa… cũng không khác thủ tục chung. Chỉ khác ở chỗ, bắt đầu phần xét hỏi, Kiểm sát viên đọc quyết định truy tố theo TTRG thay cho việc đọc cáo trạng.

Cũng như giai đoạn truy tố, trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều 324 BLTTHS thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.

Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo TTRG được tiến hành theo thủ tục chung.

5.3. Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thủ tục rút gọn.

* Về tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố:

Theo quy định tại Điều 322 BLTTHS, các quy định về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo thủ tục chung.

Về thời hạn tạm giữ, trong TTRG, thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Quy định này giống với thời hạn tạm giữ theo thủ tục chung. Tuy nhiên, điểm khác nhau giữa việc áp dụng biện pháp tạm giữ theo TTRG với thủ tục chung là không được gia hạn thời hạn tạm giữ. Quy định này xuất phát từ đặc thù của TTRG là rút ngắn thời gian giải quyết vụ án và tài liệu, chứng cứ đã rõ ràng, đơn giản. Trong khoản thời gian 03 ngày, Cơ quan điều tra hoàn toàn có đủ thời gian quyết định việc có khởi tố bị can hay không.

Đối với biện pháp tạm giam, thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá 16 ngày. Do xuất phát từ đặc thù của vụ án được giải quyết theo TTRG và để nâng cao trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nên việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cũng rất hạn chế và thời hạn tạm giam cũng ngắn hơn so với thủ tục chung.

Theo khoản 3 Điều 322 BLTTHS, thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày nên trong trường hợp đã áp dụng biện pháp tạm giữ rồi mới khởi tố thì khi áp dụng biện pháp tạm giam, thời hạn tạm giam phải trừ thời gian tạm giữ, cứ 01 ngày tạm giữ được tính bằng 01 ngày tạm giam.

* Về tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm:

Theo khoản 4 Điều 324 BLTTHS, trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày. Thời hạn này đúng bằng thời hạn tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm theo TTRG. Tuy nhiên, cũng như giai đoạn điều tra, truy tố, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ở giai đoạn xét xử sơ thẩm không nhiều do các điều kiện áp dụng TTRG đã thu hẹp nhiều đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam.

III.  MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUÂT VỀ ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.

Để khắc phục các vướng mắc, bất cập về thủ tục rút gọn trong BLTTHS, trên cơ sở các yêu cầu cần phải tuân thủ khi xây dựng quy định về TTRG trong thời gian tới, kiến nghị hoàn thiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, bổ sung thêm vào Điều 318 như sau:

“Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này.”

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các điều kiện áp dụng TTRG ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm tại Điều 319 BLTTHS. Cụ thể như sau:

“Điều 319. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn

TTRG phải được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:

1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, bị bắt khẩn cấp hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú;

2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;

Sự việc phạm tội đơn giản là tội phạm xảy ra do một người thực hiện hoặc vụ án có đồng phạm nhưng dễ dàng đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; vụ án không có tình tiết phạm tội có tổ chức, phạm nhiều tội; vụ án chỉ liên quan 01 lĩnh vực, xảy ra trên phạm vi nhỏ.

Chứng cứ rõ ràng là chứng cứ đủ để giải quyết các vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 63 BLTTHS và giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp. Đồng thời, các chứng cứ không mâu thuẫn với nhau và không cần có thêm thời gian để nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc không cần tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn.

3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng;

4. Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng và được xác định dễ dàng, nhanh chóng.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về quyết định áp dụng TTRG tại Điều 320 BLTTHS với các nội dung: thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG, trách nhiệm giải thích quy định về TTRG, quyền nhờ người khác bào chữa của người phạm tội, việc giải quyết khiếu nại. Theo đó Điều 320 BLTTHS sẽ có nội dung như sau:

“Điều 320. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn

1. Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, CQĐT phải ra quyết định áp dụng TTRG sau khi Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp CQĐT không áp dụng thì Viện kiểm sát phải ra quyết định áp dụng TTRG.

2. Cơ quan ban hành quyết định áp dụng TTRG phải gửi quyết định cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng TTRG. Đồng thời, khi gửi quyết định, cơ quan ban hành quyết định phải giải thích quy định pháp luật có liên quan đến việc áp dụng TTRG và các quyền khác mà Bộ luật này quy định cho bị can; hướng dẫn thủ tục thực hiện quyền bào chữa để bị can, người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Nếu bị can, người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải mời người bào chữa cho người phạm tội trừ trường hợp bị can, người đại diện hợp pháp của họ từ chối.

3. Quyết định áp dụng TTRG có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng TTRG; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến cơ quan đã ra quyết định áp dụng TTRG và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.

Khi có căn cứ xác định việc khiếu nại áp dụng TTRG là đúng thì cơ quan đã ra quyết định áp dụng TTRG sẽ hủy bỏ việc áp dụng và vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung. Nếu việc khiếu nại không có căn cứ thì cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản trả lời và nêu rõ lý do.

Thời gian giải quyết khiếu nại không tính vào thời hạn điều tra.”

Thứ tư, bổ sung vào khoản 2 Điều 323 và khoản 3 Điều 324 BLTTHS thẩm quyền hủy quyết định áp dụng TTRG khi Viện kiểm sát, Tòa án đánh giá các căn cứ áp dụng TTRG không đảm bảo. Theo đó, khoản 2 Điều 323 BLTTHS sẽ có nội dung như sau:

“2. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này hoặc khi xác định các căn cứ áp dụng TTRG tại Điều 319 Bộ luật này không đảm bảo thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng TTRG và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.” Và khoản 3 Điều 324 BLTTHS sẽ có nội dung:

“3. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này hoặc khi xác định các căn cứ áp dụng TTRG tại Điều 319 Bộ luật này không đảm bảo thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.”

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng thời hạn điều tra, truy tố, xét xử tại các Điều 312, 323 và 324 BLTTHS. Theo đó, thời hạn điều tra sẽ tăng từ 12 ngày lên 22 ngày; thời hạn truy số sẽ tăng từ 04 ngày lên 08 ngày và thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ tăng từ ngày 07 ngày lên 10 ngày. Thời hạn từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi mở phiên tòa giữ nguyên là 07 ngày.

Đồng thời, bổ sung vào các Điều 312, 323 và 324 BLTTHS việc gia hạn thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Theo đó, trong trường hợp cần thiết, CQĐT có thể gia hạn thời hạn điều tra 01 lần không quá 05 ngày; Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn truy tố 01 lần không quá 03 ngày và Tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử không quá 04 ngày.

Thứ sáu, bổ sung vào Điều 320 khoản 4  như sau:

“4. Khi có các căn áp dụng TTRG mà trong giai đoạn điều tra, truy tố, CQĐT, Viện kiểm sát không áp dụng thì khi vụ án được chuyển sang giai đoạn truy tố, xét xử, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định áp dụng TTRG. Trong trường hợp, Viện kiểm sát áp dụng TTRG trong giai đoạn truy tố thì giai đoạn xét xử cũng áp dụng TTRG.”

Thứ bảy, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định về tạm giữ, tạm giam tại các khoản 2, 3 Điều 322 BLTTHS với các nội dung: việc gia hạn thời hạn tạm giữ; trừ thời hạn tạm giữa vào thời hạn tạm giam; thời hạn phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT; tách việc áp dụng biện pháp tạm giam giữa CQĐT với Viện kiểm sát. Theo đó, các khoản 2, 3 Điều 322 BLTTHS sẽ có nội dung như sau:

“2. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày CQĐT nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, CQĐT có thể gia hạn tạm giữ một lần. Việc thực hiện thủ tục gia hạn tạm giữ được thực hiện như thủ tục chung.

3. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được vượt quá thời hạn điều tra, truy tố. Trong trường hợp, CQĐT có áp dụng biện pháp tạm giữ thì thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Viện kiểm sát xem xét phê chuẩn việc gian hạn tạm giữ, lệnh tạm giam của CQĐT trong hạn 24 giờ kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị phê chuẩn của CQĐT.”

Thứ tám, bổ sung vào Điều 321 BLTTHS khoản 3 quy định về tạm đình chỉ điều tra với nội dung như sau:

“3. Khi có căn cứ tạm đình chỉ điều tra theo Điều 160 Bộ luật này thì CQĐT quyết định hủy bỏ việc áp dụng TTRG và phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Khi đó, vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung.”

Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung 02 nguyên tắc của BLTTHS tại Điều 15 về thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia và Điều 17 về việc Toà án xét xử tập thể cho phù hợp với quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, việc áp dụng 02 nguyên tác này sẽ không áp dụng trong trường hợp vụ án được xét xử theo TTRG.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Tóm lại, việc giải quyết vụ án theo TTRG là định hướng lớn đã được Đảng, Nhà nước ta đề ra từ khi đất nước mới giành độc lập. Trong tố tụng hình sự, chế định này đã được cụ thể hóa trong nhiều văn bản của Chính phủ, các cơ quan tư pháp trung ương trước khi được quy định chi tiết trong BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, do bị gián đoạn trong thời gian dài, từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1986 có hiệu lực đến khi BLTTHS có hiệu lực, nên các quy định về TTRG trong BLTTHS chưa được hoàn chỉnh, việc nhận thức, vận dụng các quy định này trong thực tiễn còn hạn chế nhất định. Chính vì vậy, qua thực tiễn áp dụng, đòi hỏi phải có sự tổng kết để sửa đổi, bổ sung quy định về TTRG, góp phần phát huy ý nghĩa, vai trò của TTRG, đấu tranh phòng chống tội phạm ngày càng hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Với các vướng mắc, bất cập và đề xuất kiến nghị hoàn thiện mà bài viết này nêu lên, hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện quy định về TTRG trong BLTTHS, đặc biệt trong thời điểm Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang tổng hợp ý kiến để hoàn thành dự thảo BLTTHS sửa đổi

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
l. Luât tố tụng hình sự năm 2003; 
2.Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
3. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi , bổ sung năm 2009;
4. Nguyễn Văn Hiền, Thủ tục rút gọn trong TTHS Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004;
5. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004;

No comments:

Post a Comment