21/01/2015
Nguyên tắc xác nhận sự thật của vụ án - Bài tập nhóm Luật Tố tụng Hình sự
I. Nội dung của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.

Cơ sở hình thành nguyên tắc.

Cơ sở thực tiễn: do thực tiễn trong quá trình điều tra phát hiện tội phạm còn tồn tại nhiều bất cập nên chúng ta cần phải đưa ra một nguyên tắc để hạn chế tối đa sự bất cập đó, và nguyên tắc đó chính là phải xác định sự thật của vụ án trong quá trình điều tra vì đã có không ít trường hợp chúng ta đã phạm sai lầm trong công tác điều tra phá án, xác định sai người phạm tội, và dẫn đến những người vô tội bị hàm oan.

Trong quá trình tố tụng, những người có quyền công tố, những người tham gia xét xử có khi chưa thực sự khách quan và toàn diện, có thể vì một số nguyên nhân khác nhau như có quan hệ thân thuộc, tình cá nhân.. mà trong quá trình xét xử dẫn đến việc không khi điều tra, truy tố, xét xử làm thay đổi tình tiết vụ án và phán quyết không đúng người đúng tội, vì vậy việc xác định sự thật của vụ án sẽ có vai trò vô cùng quan trọng.

Về phía người tham gia tố tụng, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp vì nguyên nhân khách quan và chủ quan mà đã không khai bảo đúng sự thật, với mục đích che giấu tội phạm dẫn đến việc xử án gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để tránh những tình trạng trên, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án đã ra đời, nhằm đảo bảo cho việc xử đung người đúng tội, những người có tội sẽ phải bị xử phạt và không xử oan người vô tôi.

Cơ sở pháp lý: Nguyên tắc xác định sự thật được quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS). Ngoài ra, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này còn được quy định tại một số Điều luật trong Bộ luật này và các văn bản luật liên quan.

Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.

2. Nội dung của nguyên tắc.

Quá trình giả quyết vụ án thông qua những giai đoạn khác nhau, nhưng các giai đoạn đó đều có mục đích chung là tìm ra sự thật của vụ án. Đây cũng chính là tư tưởng chủ đạo, là nhiệm vụ bao trùm của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Do đó, đây là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự. Để đấu tranh chống tội phạm đạt được hiệu quả tốt thì mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện và xử lý trước pháp luật, luật tố tụng hình sự đã ghi nhận nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nội dung của nguyên tắc này như sau:

Thứ nhất, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp, tức là các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Các biện pháp đó bao gồm: Các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ và các biện pháp khác do pháp luật quy định. Khi sử dụng các biện pháp đó, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định của pháp luật về việc áp dụng các biện pháp đó, không được sử dụng các biện pháp bất hợp pháp để tiến hành làm rõ vụ án như: Bức cung, mớm cung, nhục hình…

Thứ hai, để xác định sự thật của vụ án, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các vấn đề như: Có hành vi tội phạm xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và các tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự hay không? Mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Trong quá trình tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm không được thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.

Xác định sự thật của vụ án một cách khách quan là tiến hành điều tra và xét xử vụ án một cách vô tư, không định kiến, suy diễn mà phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập và đánh giá theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng phải có căn cứ, tức là chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm ( Điều 100) và chỉ được ra quyết định khởi tố bị can khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội ( Điều 126).

Xác định sự thật của vụ án một cách toàn diện là xem xét hành vi phạm tội trên các mặt của yếu tố cấu thành tội phạm trong một tổng thể, không tách rời nhau, thu thập và đánh giá cả chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, kiểm tra mọi giả thiết có thể đặt ra.

Xác định sự thật của vụ án một cách đầy đủ là làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án, trong đó có những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm của bị can, bị cáo cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Nếu việc điều tra không đầy đủ thì phải điều tra bổ sung, việc điều tra không đầy đủ còn là cơ sở để hủy bản án sơ thẩm.

Thứ ba, mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên cơ sở pháp lý để rút ra kết luận về vụ án. Nguyên tắc này muốn được thực hiện tốt thì đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ là làm chủ được nghề nghiệp, nắm được những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lý, có thói quen và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lý. Việc xác định sự thật khách quan của vụ án phải dựa trên quan điểm Mác-Lenin về vấn đề nhận thức vì nó ảnh hưởng lớn đến việc xác định đúng đắn vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.

Thứ tư, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Luật tố tụng hình sự không quy định bị can, bị cáo phải khai đúng sự thật; mặt khác bị can, bị cáo cũng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được bị can, bị cáo có tội hay không thì phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem xét. Trong quá trình điều tra, xét xử, bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh là mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của bị can, bị cáo kết hợp những chứng cứ khác cơ quan tiến hành tố tụng xác định bị can, bị cáo có tội hay không có tội.

Nguyên tắc này liên quan chặt chẽ với nguyên tắc suy đoán vô tội và tạo tiền đề cho nhau. Tuy nhiên bản chất pháp lý của chúng khác nhau. Suy đoán vô tội là định hướng khách quan, còn nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là đòi hỏi trực tiếp đối với mọi hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng trong việc thu thập và đánh giá các chứng cứ và các tình tiết của vụ án.

Như vậy, mặc dù bị can, bị cáo là những người nắm thông tin đầy đủ nhất liên quan đến hành vi phạm tội do họ thực hiện nhưng lời khai của họ không thể thay thế và có ý nghĩa quan trọng đối với công tác điều tra, xử lí vụ án hình sự. Trên thực tế, do xuất phát từ những động cơ khai báo khác nhau nên lời khai của họ về các tình tiết của vụ án không phải bao giờ cũng đáng tin cậy. Ngoài ra, khi đã bị khởi tố và có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giam, bị can, bị cáo không thể có khả năng và thẩm quyền phát hiện, thu thập, ghi nhận các loại chứng cứ khác nhau của vụ án - điều mà các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn toàn có khả năng và thẩm quyền thực hiện. Chính vì vậy, việc pháp luật quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, và không coi đó là nghĩa vụ mà là quyền của bị can, bị cáo là hoàn toàn hợp lý.

Thông thường, trách nhiệm chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng được hiểu là trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu của tội phạm và áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để thu thập, củng cố, kiểm tra, đánh giá mọi tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án nhằm “phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” (Điều 1 Bộ luật tố tụng). Để đạt được mục đích đó, các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ thu thập những chứng cứ buộc tội bị can, bị cáo, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà phải thu thập cả những chứng cứ gỡ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ. Như vậy, trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự không được hiểu một cách phiến diện là trách nhiệm chứng minh “tính có lỗi”, sự có tội của bị can, bị cáo mà đó là trách nhiệm thu thập, kiểm tra, nghiên cứu, đánh giá mọi chứng cứ nhằm làm rõ nội dung, tính chất của sự việc xảy ra, trên cơ sở đó ra những quyết định phù hợp theo đúng chức năng, thẩm quyền mà pháp luật quy định. Trách nhiệm này không chỉ xuất phát từ yêu cầu giải quyết các vụ án của tố tụng hình sự nói chung mà còn xuất phát từ nguyên tắc công khai, khách quan, toàn diện, đầy đủ khi nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án. Việc hiểu đúng tinh thần của pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Khi vấn đề này không được các chủ thể tiến hành tố tụng nhận thức rõ một cách đúng đắn sẽ làm nảy sinh định hướng buộc tội trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ. Khi ấy, không thể nói tới tính khách quan trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như không thể đánh giá rằng các cơ quan này đã hoàn thành nghĩa vụ tố tụng của mình theo đúng yêu cầu của pháp luật.

Tóm lại, xác định đúng trách nhiệm chứng minh tội phạm và hiểu đúng tinh thần của những vấn đề liên quan đến nó là điều cần thiết và quan trọng để tránh sự nhìn nhận không toàn diện của các chủ thể tiến hành tố tụng.

Ý nghĩa của nguyên tắc.

Xác định sự thật của vụ án chính là việc cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Do vậy để đảm bảo việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, trừng phạt thích đáng những người có hành vi phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội việc xác định sự thật của vụ án là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện được điều này. Nếu không có nguyên tắc này thì việc xác định có tội hay không có tội trở nên rất khó kiểm soát. Nếu như pháp luật không quy định chủ thể, biện pháp dùng để xác định sự thật cũng như nội dung xác định sự thật của vụ án thì việc thực hiện mục đích trên là không thể. Và như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân rất có thể bị xâm phạm.

Ngoài ra có thể xem xét ý nghĩa của nguyên tắc này được xem xét dưới những góc độ sau đây:

Ý nghĩa chính trị - xã hội: Xác định sự thật của vụ án là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, pháp luật sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh.

Việc thực hiện đúng nguyên tắc này là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự ổn định xã hội. Hiện nay, người dân đang ngày càng ý thực được các quyền cơ bản của mình, đồng thời với đó là nhận thức về pháp luật cũng được nâng cao thì việc áp dụng đúng nguyên tắc xác định sự thật của vụ án thực sự trở nên chú trọng hơn bao giờ hết. Đã có rất nhiều trường hợp vì những sai sót không đáng có của người tiến hành tố tụng mà có nhiều người phải chịu án oan sai. Khi những vụ việc này được đưa ra ánh sáng thì đã gây ra rất nhiều bức xúc cho người dân và mất bình ổn xã hội.

Ý nghĩa thực tiễn: Nhiệm vụ của hoạt động tố tụng trong giải quyết vụ án cụ thể là phát hiện nhanh chóng, xử lý chính xác, công minh tội phạm và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Việc xác định sự thật của vụ án là nhằm sáng tỏ các tình tiết khác nhau của vụ án phục vụ cho việc định tội, quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt cũng như giải quyết các vấn đề khác liên quan của vụ án. Tránh được sự lạm quyền của những người có quyền hạn trong tố tụng nhằm làm thay đổi tình tiết trong vụ án dẫn đến sai sự thật, xét xử hàm oan cho người vô tội.

Ý nghĩa pháp lý: Góp phần cụ thể hóa nguyên tắc hiến định và là cơ sở để tiến hành các giai đoạn tố tụng. Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 71: “…Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” và Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ...”. Việc xác định sự thật phải được tiến hành do cán bộ tư pháp thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án và chỉ được sử dụng biện pháp hợp pháp. Nguyên tắc này đã loại trừ những trường hợp người tiến hành tố tụng lại sử dụng các biện pháp có khả năng xâm hại nghiêm trọng tới các quyền cơ bản của công dân để làm rõ sự thật của vụ án. Để đảm bảo một cách tối đa quyền lợi của người dân, cơ quan tiến hành tố tụng phải có đầy đủ căn cứ chứng minh tội phạm, thể hiện qua bản án kết tội của Tòa án mới có thể khẳng định là có tội.

Quá trình xác định sự thật là một quá trình vô cùng phức tạp, khi giữa các giai đoạn đều có sự liên quan mật thiết với nhau. Khi có đủ căn cứ khẳng định có dấu hiệu của tội phạm thì mới có thể khởi tố vụ án, và đó chính là căn cứ để tiến hành các hoạt động điều tra. Kết quả điều tra chính là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can hoặc đình chỉ vụ án, đồng thời nó cũng là cơ sở để Tòa án xét xử đúng người đúng tội…Nếu như việc xác định sự thật tại một trong các giai đoạn đó không được đảm bảo thì tất yếu nguyên tắc này sẽ không được thực hiện.

II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.

Trên thực tế, việc suy đoán rồi kết tội cho bị can, bị cáo vẫn mang tính chủ quan, không dựa trên những chứng cứ thu thập được một cách khách quan, vẫn áp dụng những hình thức điều tra, xét hỏi mang tính áp đặt, không dựa vào những đặc điểm khách quan của vấn đề. Việc xét xử, đưa ra quyết định cuối cùng của Toà án có thể bị sai, quyết định chưa đúng khi cơ quan tiến hành tố tụng chưa tìm hiểu rõ về nhân thân người phạm tội mặc dù đó là một trong những điều bắt buộc phải chứng minh trong các vụ án hình sự. Đã có lúc người có thẩm quyền, cơ quan tiến hành tố tụng có cách nhìn phiến diện về nhân thân của người phạm tội mà có những quyết định chưa chính xác về vụ án. Vì thế, vấn đề về nhân thân của người phạm tội cần phải được tìm hiểu một cách rõ ràng, cụ thể, chi tiết để có cái nhìn, nhận xét đúng hơn về lỗi, động cơ, mục đích phạm tội của bị can, bị cáo, từ đó đưa ra được quyết định hình phạt đúng, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

Có thể thấy nguyên nhân dẫn đến hủy bản án sơ (phúc) thẩm chính là thiếu sót trong việc nhận định, xác minh và đánh giá các chứng cứ. Vấn đề này là do nhiều lý do khác nhau, tuy nhiên một trong những nguyên nhân nổi bật là sự hạn chế về năng lực, trình độ của cán bộ tư pháp chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn. Trong thực tiễn của hoạt động điều tra, một số điều tra viên chưa nắm chắc được những quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là trong những vụ án liên quan đến lĩnh vực kinh tế, kế toán, tài chính, khoa học công nghệ; phương pháp điều tra còn hạn chế, thụ động, nặng về hành chính, khả năng mở rộng và khám phá còn yếu; trong một số vụ án số lượng và giá trị của chứng cứ rất lớn nên các điều tra viên không thu thập được đầy đủ và có đánh giá chưa đúng về vụ án. Đặc biệt, với các tội phạm diễn ra trong một thời gian dài thì, việc xác định sự thật thực sự rất khó khăn bởi những người tiến hành tố tụng có thể được thay thế theo thời gian, cùng với đó là sự phối hợp nhân dân, cơ quan và tổ chức không thực sự hiệu quả do vậy dẫn đến việc bỏ sót tình tiết hay đưa ra những kết luận thiếu chính xác là điều thường xảy ra.

Bên cạnh đó là sự thiếu trách nhiệm hoặc cố ý vi phạm pháp luật của một số điều tra viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì thành tích cá nhân, tập thể hoặc vì động cơ vụ lợi của một số chủ thể tiến hành tố tụng mà tình trạng sai, oan trong các vụ án hình sự ngày một gia tăng. Do đó, pháp luật cần có những biện pháp và hình thức xử lý nghiêm khắc nhất với những cán bộ, công chức, viên chức biết luật mà vẫn thực hiện trái pháp luật.

Từ thực tế trên xin đưa ra một số giải pháp như sau:

Cần hoàn thiện một số quy định của pháp luật. Bổ sung điều luật về hoạt động kiểm tra chứng cứ và hoạt động sử dụng chứng cứ trong quá trình chứng minh. Thực tế pháp luật hiện hành không có điều luật nào quy định về hoạt động kiểm tra chứng cứ. Do đó cần thiết phải bổ sung quy định về hoạt động này. Để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc, nhận thấy chúng ta cần phải có một hệ thống pháp luật ổn định và chặt chẽ. Theo quan điểm của nhóm, việc hướng đến hình thức tranh tụng trong phiên tòa là một trong những phương án có tính khả thi cao nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. Rõ ràng, với hình thức đó, Viện Kiểm sát sẽ phải có những căn cứ thực sự thuyết phục mới có thể buộc tội được một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì tất yếu việc xác định sự thật phải được tiến hành đúng và đủ.

Một vấn đề nữa chính là quy định trong các văn bản luật còn chưa thực sự thống nhất. cần tránh sự mâu thuẫn xảy ra trong chính một văn bản. Do vậy, việc thống nhất hệ thống văn bản luật để việc áp dụng trở nên dễ dàng hơn là điều cần thiết.

Hoàn thiện hình thức tranh tụng trong phiên tòa là một trong những phương án được rất nhiều người quan tâm. Không chỉ nâng cao tính khách quan, hiệu quả trong công tác tố tụng nói chung mà còn nâng cao trách nhiệm của những người có nghĩa vụ chứng minh. Nếu như không đảm bảo việc xác định sự thật một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thì rõ ràng việc thực hiện chức năng công tố của Viện Kiểm sát cũng như xét xử của Tòa án, thi hành án của cơ quan Thi hành án… là không thể đảm bảo.

Trong phiên điều trần nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp và hoàn thiện công tác cải cách tư pháp, một vấn đề mấu chốt được đặt ra là cần nâng cao và mở rộng hoạt động đào tạo chuyên môn cho cán bộ tư pháp. Việc nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tất yếu cũng hướng đến mục đích nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp nói chung. Một thực trạng dễ thấy là cán bộ tư pháp còn thiếu rất nhiều về số lượng và yếu về chất lượng. Hiện nay, phần lớn cán bộ tư pháp ở nước ta được đào tạo tại Học viện tư pháp tuy nhiên kết quả đào tạo không hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu. Một trong những nguyên nhân đó chính là chất lượng đầu vào khi mà phần lớn người học có trình độ tại chức. Hơn nữa, một số điều kiện liên quan khác như trình độ giáo viên, giáo trình giảng dạy cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Do vậy, hoàn thiện công tác giảng dạy, đào tạo tại Học viện Tư pháp là một vấn đề cần thiết. Cần có điều chỉnh chế độ tiền lương và phụ cấp hợp lý hơn cho đội ngũ cán bộ Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Mức phụ cấp hiện nay chưa thỏa đáng, tương đối thấp so với tính chất và mức độ của công việc được giao. Chính tình trạng này dẫn tới tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nhằm hạn chế những hành vi vi phạm trong công tác xác định sự thật của những người tiến hành tố tụng, một vấn đề cũng vô cùng cấp thiết đó chính là quán triệt công tác đào tạo ngay từ đầu tại các cơ sở đào tạo. Để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này, thiết nghĩ cần phải nâng cao chất lượng kiểm sát các hoạt động nhằm xác định sự thật. Rất nhiều vụ việc oan sai do sự bất cẩn của người tiến hành tố tụng không những xâm phạm nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mà còn gây ra sự mất ổn định xã hội.

Một trong những giải pháp cần thiết nữa đó chính là nâng cao sự phối – kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức với nhau, giữa các cơ quan, tổ chức với nhân dân nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp nói chung là nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật nói riêng. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao trách nhiệm của những người tham gia tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho cán bộ tư pháp hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Đổi mới tổ chức bộ máy, đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Cần phải có các biện pháp để đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án cho hợp lý hơn. Vì thực tế cho thấy rằng tổ chức và hoạt động của những cơ quan tiến hành tố tụng này còn nhiều điểm bất hợp lý như: trong các cơ quan điều tra vẫn còn hiện tượng phân tán lực lượng; chưa đảm bảo tính chuyên sâu trong hoạt động điều tra các loại tội phạm; thiếu sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa điều tra các loại tội phạm... Dẫn đến hiện tượng chồng chéo, khó phân định rõ ràng được chức năng và nhiệm vụ của viện kiểm sát với các cơ quan đó. Việc phân định thẩm quyền xét xử của tòa án cấp tỉnh và tóa án cấp huyện còn chưa hợp lý…

Tăng cường hơn nữa công tác giải thích pháp luật, giáo dục pháp luật cho người dân. Việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc quyết định thành công hay thất bại của việc giải quyết một vụ án hình sự, xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân nhằm nâng cao ý thức pháp luật của họ. Từ đó giúp hình thành ở những người dân một tinh thần tích cực chủ động tố giác tội phạm, khai báo trung thực, đầy đủ, góp phần thực hiện tốt quá trình chứng minh trong vụ án hình sự.

KẾT LUẬN.

Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy pháp luật tố tụng hình sự quy định khi tiến hành tố tụng cần phải tuân thủ các nguyên tắc của luật nói chung và tuân thủ nguyên tắc xác định sự thật của vụ án nói riêng là vô cùng hợp lý và đúng đắn. Sự thật thì chỉ có một nên việc tìm ra sự thật của vụ án là vấn đề quan trọng hàng đầu góp phần giúp cho công tác xét xử được đúng người, đúng tội, công lý được thực thi tạo cho nhân dân niềm tin vào công lý, niềm tin vào pháp luật để pháp luật thực sự trở thành công cụ hữu hiệu nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cần thực hiện kết hợp các giải pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2000.

Vũ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.

Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.

Bộ luật TTHS năm 2003.

http://www.vietlaw.gov.vn

Luathinhsu.wordpress.com

http://www.vietlaw.gov.vn

No comments:

Post a Comment