11/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương VIII - Quan hệ pháp luật
CHƯƠNG VIII

QUAN HỆ PHÁP LUẬT


I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI QUAN HỆ PHÁP LUẬT


1. Khái niệm

Để sinh tồn, các thành viên của xã hội luôn phải phối hợp với nhau ở nhiều hoạt động. Sự phối hợp mang tính cộng đồng là cái vốn có trong mọi hoạt động chung của con người, là mối liên hệ giữa người với người xuất hiện do nhu cầu tất yếu của đời sống xã hội. Những mối liên hệ tất yếu này gọi là những mối quan hệ xã hội. Những mối quan hệ xã hội đa chiều luôn nảy sinh và tồn tại ở nhiều lĩnh vực của đời sống; đó là những quan hệ trong lao động sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội, quan hệ trong gia đình, bè bạn... Tham gia vào các mối quan hệ xã hội nyaf, các thành viên của xã hội có các cách xử sự khác nhau và đều mong muốn đạt được lợi ích của riêng mình. Như vậy, những xử sự khác nhau này có thể ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến những người xung quanh. Do tính tổ chức của đời sống cộng đồng nên đòi hỏi các quan hệ xã hội phải phát triển theo hướng nhất định; tức là xử sự của con người trong các mối quan hệ xã hội phải theo trật tự, cách thức nhất định được đề ra từ trước. Đây là các xử sự mẫu mà chúng ta vẫn gọi là quy phạm xã hội. Tính đa dạng của các quan hệ xã hội dẫn đến sự phong phú của các hình thức tác động đến chúng. Trong đời sống có nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau. Chúng tác động đến nhiều loại quan hệ xã hội và sự tác động của các quy phạm tới hành vi của các thành viên trong xã hội đã tạo ra trật tự, ổn định nhất định của xã hội. Các quan hệ xã hội có thể cùng lúc chịu sự tác động của nhiều quy phạm xã hội. Ví dụ: Quan hệ hôn nhân và gia đình có thể chịu sự tác động của quy phạm đạo đức, quy phạm pháp luật, tín điều tôn giáo...
Hiệu quả tác động của mỗi loại quy phạm có sự khác nhau rất lớn. Có những mối quan hệ xã hội dùng quy phạm đạo đức tác động tới thì đạt hiệu quả cao hơn so với sự tác động của quy phạm pháp luật hoặc tín điều tôn giáo... Hiệu quả tác động của mỗi loại quy phạm có sự khác nhau rất lớn. Có những mối quan hệ xã hội dùng quy phạm đạo đức tác động tới thì đạt hiệu quả cao hơn so với sự tác động của quy phạm pháp luật hoặc tín điều tôn giáo hay có những mối quan hệ xã hội dùng quy phạm pháp luật tác động lại có hiệu quả cao hơn, chẳng hạn như trong quan hệ trao đổi hàng hóa thì không phải mọi trường hợp đều tuân theo quy tắc đạo đức, trung thực, ngay thẳng mà có thể có hành vi gian dối xảy ra. Vì vậy, sự tác động của quy phạm pháp luật ở mối quan hệ này là cần thiết... Do đó, việc chọn loại quy phạm nào để tác động tới quan hệ xã hội có ý nghĩa rất lớn đối với sự ổn định chung của xã hội. Trong đó sự tác động của quy phạm pháp luật là vô cùng quan trọng; bởi vì với những đặc tính trội của mình, quy phạm pháp luật có vai trò hơn hẳn so với những quy phạm xã hội khác. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ xã hội đều có thể tác động tới bằng quy phạm pháp luật; mặc dù pháp luật có nhiều ưu thế so với quy phạm xã hội khác nhưng nếu pháp luật can thiệp quá sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chưa hẳn đã tốt. Cho nên phải cân nhắc kĩ lưỡng để quyết định chọn quan hệ xã hội nào cần tác động bằng quy phạm pháp luật, quan hệ nào chỉ cần tác động bằng các quy phạm xã hội khác. Thực tế, cách thức xử sự mà quy phạm xã hội đề ra đều nhằm tạo ra trật tự nhất định, phù hợp với lợi ích nào đó. Vì vậy, các quy tắc đề ra trong các quy phạm xã hội đều đòi hỏi mọi người trong xã hội tự giác tuân theo. Việc quy tắc xử sự của quy phạm nào đó không được tự giác thực hiện thì đều gây ra những ảnh hưởng không tốt đối với xã hội. Chỉ có điều là mức độ ảnh hưởng khác nhau. Đây chính là ranh giới để xác định khi nào thì cần phải tác động bằng quy phạm pháp luật. Khi ban hành pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật bao giờ cũng phải cân nhắc, quyết định quan hệ xã hội cần tác động tới bằng pháp luật; đó chính là các mối quan hệ xã hội xảy ra phổ biến, điển hình và ảnh hưởng đến lợi ích cơ bản của xã hội nói chung. Tất nhiên quan niệm về lợi ích cơ bản của các nhà nước là khác nhau cho nên chọn quan hệ nào để tác động tới bằng pháp luật là khác nhau.

Khi quy phạm pháp luật tác động tới quan hệ xã hội thì các bên tham gia quan hệ phải tuân theo cách xử sự mà quy phạm đã đề ra. Các bên có thể thực hiện hoặc buộc phải thực hiện những hành vi nhất định do quy phạm quy định và đảm bảo thực hiện. Những quan hệ xã hội như vậy gọi là quan hệ pháp luật.

Tóm lại: Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh trong đó các bên tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ được nhà nước đảm bảo thực hiện.

Quan hệ pháp luật là dạng đặc biệt của quan hệ xã hội. Nó tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và có liên quan mật thiết với các loại hình quan hệ xã hội khác.

* Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau:

- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội: Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh. Vì thế quan hệ pháp luật mang đầy đủ các đặc tính của quan hệ xã hội nói chung. Đây là mối liên hệ giữa những con người cụ thể trong xã hội; họ đều vì những lợi ích nhất định mà tham gia vào các mối quan hệ này; khi tham gia đều nhận thức được cách thức xử sự mà xã hội đòi hỏi đối với họ, phải làm gì và làm như thế nào.

- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí: Quan hệ xã hội xuất hiện do ý chí của con người, quan hệ này không ngẫu nhiên hình thành mà phải qua hoạt động của các bên tham gia quan hệ, trên cơ sở các cách xử sự mà quy phạm xã hội do chính hoạt động có ý chí của con người đề ra.

Tính ý chí của quan hệ pháp luật được thể hiện ở hai mặt. Trước hết, quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội chứa đựng ý chí nhà nước. Thông qua bộ phận quy định của quy phạm pháp luật, mệnh lệnh của nhà nước được đặt ra đối với các bên tham gia quan hệ pháp luật; họ có thể làm gì, phải làm gì, làm như thế nào... Đây chính là cách thức xử sự phải tuân theo khi họ tham gia quan hệ pháp luật. Tiếp theo, các bên tham gia quan hệ pháp luật bày tỏ ý chí của mình bằng việc tiến hành các hoạt động nhất định. Trên cơ sở cách thức xử sự mà quy phạm đã nêu và tùy theo khả năng của mình, các bên tham gia quan hệ pháp luật tự mình thực hiện những hành vi nhất định phù hợp với pháp luật và đồng thời thỏa mãn nhu cầu của họ. Ví dụ, trong quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái, cha mẹ thực hiện việc nuôi dưỡng con của mình thành người có ích cho xã hội phù hợp với điều kiện của gia đình. Như vậy, cha mẹ tiến hành các hoạt động đúng theo cách xử sự mà quy phạm đã nêu, họ bày tỏ ý chí của mình phù hợp với ý chí của nhà nước. 

- Quan hệ pháp luật được pháp luật xác lập và điều chỉnh: Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật, tức là trên cơ sở ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội. Việc lựa chọn quan hệ xã hội nào điều chỉnh bằng pháp luật phụ thuộc vào ý chí nhà nước. Trong những xã hội khác nhau, việc lựa chọn này cũng khác nhau. Cùng mối quan hệ xã hội, nếu sự tồn tại của nó có lợi đối với giai cấp thống trị thì được thừa nhận, được tạo điều kiện phát triển nhưng nếu gây tổn hại tới lợi ích của giai cấp thống trị thì bị kìm hãm hoặc loại bỏ. Ví dụ: Quan hệ bất bình đẳng giữa người với người được xã hội phong kiến thừa nhận và bảo vệ nhưng lại bị loại bỏ ở xã hội tư bản và xã hội xã hội chủ nghĩa...

Quan hệ pháp luật được pháp luật điều chỉnh còn thể hiện ở cách thức xử sự mà quy phạm pháp luật quy định đối với các bên tham gia quan hệ pháp luật. Các bên có quyền làm gì, phải làm gì đều xuất phát từ lợi ích giai cấp. Thậm chí có giai cấp thống trị cho mình có quyền làm tất cả những gì mà họ muốn và không phải làm những việc mà họ không thích. Ví dụ: Giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến mà đại diện là vua, quan có quyền rất lớn...

- Các bên của quan hệ pháp luật có quyền và nghĩa vụ pháp lí được nhà nước đảm bảo thực hiện: Đây là đặc điểm quan trọng của quan hệ pháp luật. Cách xử sự của các bên tham gia quan hệ pháp luật do quy phạm pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Đó có thể là các bên được phép hoặc buộc phải tiến hành những xử sự nào đó; những xử sự này do pháp luật quy định và gọi là quyền và nghĩa vụ pháp lí của các bên tham gia quan hệ pháp luật. Bằng xử sự thực tế của mình, các bên tham gia quan hệ pháp luật đã cụ thể hóa các cách xử sự mà quy phạm đã nêu nhưng phải phù hợp với các quyền và nghĩa vụ pháp lí. Các quyền và nghĩa vụ pháp lí được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Trong trường hợp các bên thực hiện không đúng các quyền và nghĩa vụ pháp lí, gây ra thiệt hại nào đó thì họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

- Quan hệ pháp luật có tính cụ thể, xác định chặt chẽ: Quan hệ pháp luật bao giờ cũng là quan hệ giữa những con người cụ thể của xã hội. Khi quan hệ pháp luật nảy sinh trong thực tế cuộc sống, các bên tham gia có các quyền và nghĩa vụ pháp lí đã được pháp luật xác định trước. Để tham gia vào quan hệ pháp luật, các thành viên của xã hội phải có những điều kiện nhất định. Những điều kiện này được pháp luật quy định khác nhau đối với các quan hệ pháp luật tồn tại ở những xã hội khác nhau. Xuất phát từ lợi ích giai cấp mà pháp luật quy định điều kiện này có thể cao, thấp khác nhau nhằm hạn chế hoặc mở rộng đối tượng (diện) tham gia quan hệ pháp luật.

2. Phân loại quan hệ pháp luật

Quan hệ pháp luật nảy sinh ở hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quan hệ pháp luật rất phong phú và đa dạng. Chúng nhiều về số lượng và khác nhau về tính chất, về cách xử sự, về thành phần tham gia quan hệ pháp luật. Việc phân loại quan hệ pháp luật là cần thiết, giúp cho hoạt động xây dựng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền được nhanh chóng và chính xác. Ngoài ra, việc phân loại cũng góp phần xác định xu hướng vận động và phát triển của các quan hệ xã hội trong tương lai. Có ý nghĩa quan trọng đối với công tác dự báo pháp luật. Có nhiều tiêu chí để phân loại quan hệ pháp luật, cụ thể:

- Căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh, quan hệ pháp luật được phân loại thành các nhóm lớn tương ứng với các ngành luật như: Quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật đất đai... Hiện nay, cách phân loại này là phổ biến và được thừa nhận rộng rãi. Việc phân loại quan hệ pháp luật dựa vào đối tượng điều chỉnh của ngành luật có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc. Thông qua cách phân loại này, chúng ta có điều kiện để tìm hiểu sâu hơn từng nhóm quan hệ xã hội cùng loại. Thấy được những đặc điểm riêng của chúng từ đó giúp cho hoạt động xây dựng pháp luật chính xác hơn. 

- Căn cứ vào tính xác định của các bên tham gia quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật được chia thành quan hệ pháp luật tuyệt đối và quan hệ pháp luật tương đối.

Quan hệ pháp luật tuyệt đối là quan hệ mà một bên của quan hệ pháp luật được xác định còn bên kia của quan hệ là bất kì cá nhân, tổ chức nào. Trong quan hệ pháp luật tuyệt đối bên tham gia quan hệ được xác định là bên có quyền, còn các bên kia của quan hệ có nghĩa vụ tôn trọng các quyền này và không được vi phạm. Quan hệ pháp luật về sở hữu, quan hệ pháp luật về quyền tác giả là những ví dụ về loại quan hệ pháp luật này.

Quan hệ pháp luật tương đối là quan hệ pháp luật mà các bên của quan hệ pháp luật được xác định trước; được chỉ rõ đó là cá nhân hay tổ chức có những quyền và nghĩa vụ pháp lí đối với nhau. Nói cách khác, các bên vừa có quyền vừa có nghĩa vụ trong một mối quan hệ pháp luật cụ thể. Quan hệ hợp đồng, quan hệ hôn nhân... là những quan hệ thuộc loại này.

- Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể, quan hệ pháp luật được chia thành quan hệ pháp luật điều chỉnh và quan hệ pháp luật bảo vệ.

Quan hệ pháp luật điều chỉnh là quan hệ pháp luật mà cách thức xử sự của các bên tham gia pháp luật được quy định trước, thể hiện ở việc các bên có thể thực hiện, buộc phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành động nhất định. Ví dụ, quan hệ pháp luật lao động, quan hệ pháp luật hành chính...

Quan hệ pháp luật bảo vệ là quan hệ phát sinh khi có hành vi xâm hại tới lợi ích của nhà nước, của tập thể hoặc cá nhân nhất định; trong đó một bên tham gia quan hệ pháp luật bao giờ cũng là cá nhân, tổ chức có thẩm quyền còn bên kia là người thực hiện hành vi xâm hại hoặc những người có liên quan khác. Ví dụ, quan hệ pháp luật hình sự, hành chính khi có vi phạm pháp luật xảy ra.

- Căn cứ vào trật tự hình thành quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật được chia thành quan hệ pháp luật đơn giản và quan hệ pháp luật phức tạp.

Quan hệ pháp luật đơn giản là quan hệ pháp luật mà trong đó, các bên tham gia quan hệ pháp luật tự mình tiến hành các xử sự trên cơ sở những quy định của pháp luật. Ví dụ, quan hệ pháp luật dân sự trong việc mua bán hàng háo giữa các cá nhân với nhau...

Quan hệ pháp luật phức tạp là quan hệ pháp luật mà trong đó các bên tham gia quan hệ pháp luật không thể tự mình tiến hành các xử sự nhất định nếu thiếu đi những quy định khác của pháp luật và sự can thiệp của các cá nhân, tổ chức khác. Ví dụ, quan hệ trong việc bồi thường thiệt hại, trong giải quyết khiếu nại của công dân...

Ngoài ra, còn có các căn cứ phân loại quan hệ pháp luật khác như căn cứ vào thành phần (số lượng) tham gia quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật được chia thành quan hệ pháp luật có hai bên và quan hệ pháp luật có nhiều bên tham gia; căn cứ vào thời gian tồn tại của quan hệ pháp luật trong đời sống, quan hệ pháp luật được chia thành quan hệ pháp luật ổn định và quan hệ pháp luật tương đối ổn định.


II. THÀNH PHẦN CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT


Quan hệ xã hội là quan hệ nảy sinh giữa con người với con người, xuất hiện một cách khách quan do nhu cầu tất yếu của đời sống. Trong quan hệ xã hội bao giờ cũng có những con người cụ thể tham gia, họ tiến hành những hoạt động nhất định và vì lợi ích nào đó. Nói cách khác, quan hệ xã hội bao gồm những yếu tố nhất định. Là dạng của quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật cũng có cơ cấu cụ thể. Cơ cấu của quan hệ pháp luật bao gồm các bộ phận có những nét đặc thù riêng và gọi là chủ thể, nội dung và khách thể.


1. Chủ thể của quan hệ pháp luật


a. Khái niệm chủ thể của quan hệ pháp luật.

Trong khoa học pháp lí, “chủ thể” là khái niệm quan trọng và được nghiên cứu ở những góc độ khác nhau (chủ thể của quan hệ pháp luật, chủ thể áp dụng pháp luật, chủ thể vi phạm pháp luật, chủ thể của hành vi pháp luật...). Theo cách hiểu thông thường, chủ thể là khái niệm dùng để chỉ đối tượng gây ra hành động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi phối của hành động. Như vậy, khi nói tới chủ thể của quan hệ pháp luật thì đó là các bên tham gia vào quan hệ pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí được nhà nước đảm bảo thực hiện, là những cá nhân hoặc tổ chức cụ thể tiến hành những hoạt động nhất định theo quy định của pháp luật.

Trong quan hệ xã hội bình thường, người nào đó có thể tham gia hay không, hành vi của họ có thể phù hợp hoặc trái với các cách xử sự của quy phạm xã hội, có thể ảnh hưởng xấu đối với xã hội nhưng ý nghĩa không lớn. Song đối với quan hệ pháp luật thì khác, sự tồn tại, phát triển của các quan hệ pháp luật có ý nghĩa to lớn đối với xã hội nói chung. Không phải bất kì cá nhân, tổ chức nào cũng được tham gia tất cả các mối quan hệ pháp luật. Chỉ những cá nhân, tổ chức được pháp luật xác định mới có thể là chủ thể của quan hệ pháp luật. Đối với các xã hội khác nhau thì pháp luật cũng quy định khác nhau cho nên một trong những đặc trưng của quan hệ pháp luật là tính xác định của cơ cấu chủ thể. Tính xác định cơ cấu chủ thể của quan hệ pháp luật thể hiện ở hai khía cạnh:

Thứ nhất, đó là xác định loại chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Nhà nước xác định cá nhân, tổ chức được tham gia hay không được tham gia những quan hệ pháp luật nào. Tức là có những quan hệ pháp luật các chủ thể tham gia bao giờ cũng là các cá nhân hoặc có những quan hệ pháp luật thì bao giờ cũng có một bên là chủ thể có thẩm quyền... Ví dụ: Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thì bao giờ chủ thể cũng là các cá nhân; quan hệ pháp luật giải quyết khiếu nại của công dân thì một bên phải là chủ thể có thẩm quyền.

Thứ hai, để bảo vệ lợi ích của xã hội, của nhà nước và của mỗi người dân, nhà nước quy định rõ bằng quy phạm pháp luật những tổ chức, cá nhân nào muốn tham gia vào quan hệ pháp luật thì phải có những điều kiện, khả năng nhất định. Từ đó họ mới có thể thỏa mãn được mong muốn của bản thân nhưng đồng thời không ảnh hưởng tới lợi ích của nhà nước và xã hội nói chung. Đối với từng loại quan hệ pháp luật khác nhau, nhà nước xác định các điều kiện cụ thể khác nhau. Cá nhân, tổ chức nào đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy định thì có thể trở thành chủ thể của loại quan hệ pháp luật nhất định. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền tham gia quản lí nhà nước chỉ được quy định đối với công dân Việt Nam, khi họ từ đủ 18 tuổi trở lên thì có quyền bầu cử, 21 tuổi trở lên thì có quyền ứng cử và thêm các điều kiện khác nữa...

Như vậy, chủ thể của quan hệ pháp luật là các cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật và có những điều kiện do pháp luật quy định.

Điều kiện chủ thể là khả năng của cá nhân hay tổ chức do nhà nước quy định để có thể tham gia vào quan hệ pháp luật và gọi là năng lực chủ thể. Điều kiện chủ thể cho phép phân biệt khái niệm con người và tổ chức tự nhiên với khái niệm con người và tổ chức là chủ thể của quan hệ pháp luật.

Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi

* Năng lực pháp luật: Khả năng có quyền hoặc có nghĩa vụ pháp lí do nhà nước quy định cho các cá nhân, tổ chức nhất định. 
Cá nhân hoặc tổ chức nào có năng lực pháp luật thì sẽ được tham gia hoặc phải tham gia vào quan hệ pháp luật nhất định. Năng lực pháp luật có thể coi là phần tối thiểu trong năng lực chủ thể. Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật hoặc được pháp luật bảo vệ trong các quan hệ nhất định. Tính thụ động được thể hiện là chủ thể không tự tạo ra được cho mình các quyền và nghĩa vụ pháp lí. Các quyền và nghĩa vụ pháp lí mà họ có được trong mối quan hệ pháp luật cụ thể là do ý chí của nhà nước, ý chí của người thứ ba. Ví dụ: Đứa trẻ được thừa kế khi bố, mẹ chết. Quan hệ thừa kế này phát sinh do ý chí của người để lại thừa kế nếu có di chúc hoặc theo ý chí của nhà nước nếu không có di chúc. Xét trong mối quan hệ thừa kế này thì đứa trẻ là người chỉ mới có năng lực pháp luật, nó chưa thể tự mình thực hiện được các hành vi nhất định. Nhà nước phải bảo vệ các quyền hợp pháp của đứa trẻ. 

Năng lực pháp luật được nhà nước quy định như nhau đối với từng loại chủ thể. Đây là thuộc tính không tách rời của chủ thể vì khi nói tới chủ thể của quan hệ pháp luật thì trước tiên phải có năng lực pháp luật. Tuy nhiên, đây không phải thuộc tính tự nhiên mà do nhà nước quy định cho chủ thể và khác nhau đối với từng nhà nước.

Xét về nội dung, năng lực pháp luật là toàn bộ những quyền và nghĩa vụ mà các cá nhân, tổ chức được hưởng theo quy định của pháp luật.

* Năng lực hành vi: Khả năng mà nhà nước thừa nhận cho các cá nhân, tổ chức bằng hành vi của mình có thể xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí.

Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi là khả năng của cá nhân, tổ chức tự bản thân mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí mà nhà nước đã quy định. Có năng lực hành vi, chủ thể của quan hệ pháp luật có thể chủ động tham gia vào các quan hệ pháp luật và tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế. Ví dụ: Trong quan hệ pháp luật về thừa kế nêu trên, nếu người được hưởng thừa kế đã trưởng thành thì họ có đủ khả năng tự mình tham gia quan hệ này, tự thực hiện các hành vi nhất định theo quy định của pháp luật. 

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tạo thành năng lực chủ thể pháp luật. Vì thế chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chủ thể pháp luật chỉ có năng lực pháp luật thì không thể tham gia tích cực vào các quan hệ pháp luật. Ngược lại, năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực hành vi. Không thể có chủ thể quan hệ pháp luật không có năng lực pháp luật mà lại có năng lực hành vi. Tức là nếu không có năng lực pháp luật thì không thể là chủ thể của quan hệ pháp luật.

Năng lực chủ thể pháp luật luôn mang tính giia cấp. Các nhà nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về năng lực chủ thể pháp luật. Những điều kiện quy định cho cá nhân, tổ chức được tham gia vào các mối quan hệ pháp luật là khác nhau. Ví dụ: Dưới chế độ phong kiến, phụ nữ có năng lực chủ thể rất hạn chế nên rất nhiều mối quan hệ pháp luật họ không được tham gia.

Năng lực chủ thể pháp luật là hình thức thể hiện địa vị pháp lí của cá nhân và tổ chức trong xã hội. Tức là thông qua tất cả những quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ mà các cá nhân và tổ chức được hưởng, có thể biết được vị trí, vai trò của họ trong xã hội cụ thể.

b. Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật

Chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm cá nhân và tổ chức

* Cá nhân: Chủ thể là cá nhân gồm có công dân, người nước ngoài và người không có quốc tịch.

- Công dân: là loại chủ thể phổ biến và chủ yếu của các quan hệ pháp luật. Công dân là chủ thể của quan hệ pháp luật khi theo quy định của pháp luật họ có năng lực chủ thể. Không ai ngoài nhà nước và trong những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định có quyền hạn chế năng lực chủ thể của công dân. Đối với năng lực chủ thể của công dân cần lưu ý một số điểm sau:

Năng lực pháp luật của công dân do nhà nước quy định. Nó xuất hiện kể từ khi công dân sinh ra và chỉ mất đi khi người đó chết. Trong nhiều lĩnh vực, năng lực pháp luật được mở rộng dần từng bước phụ thuộc vào sự phát triển về thể lực và trí lực của công dân. Sự mở rộng dần năng lực pháp luật của chủ thể căn cứ vào độ tuổi. Bởi vì độ tuổi phản ánh ở bình diện rộng và mức độ chung nhất những điều kiện tâm-sinh lí của cùng lứa tuổi. Ví dụ: Trong quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái thì năng lực pháp luật xuất hiện từ khi đứa trẻ được sinh ra nhưng trong quan hệ pháp luật dân sự thì năng lực pháp luật xuất hiện sớm nhất khi đứa trẻ lên 6 tuổi và mở rộng dần theo độ tuổi.

Năng lực hành vi của công dân xuất hiện muộn hơn so với năng lực pháp luật. Năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi công dân đã đến độ tuổi nhất định và đạt được những điều kiện nhất định. Hiện nay, phần lớn pháp luật các nước đều lấy độ tuổi 18 và tiêu chuẩn lí trí (khả năng nhận thức được hậu quả của việc mình làm) làm điều kiện công nhận năng lực hành vi cho chủ thể của đa số các nhóm quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, độ tuổi này không phải là quy định thống nhất cho tuổi xuất hiện năng lực hành vi cao hoặc thấp hơn đối với mỗi nhóm quan hệ pháp luật. Điều này phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của quan hệ xã hội cũng như tình hình phát triển của kinh tế-xã hội nói chung. Bên cạnh những quy định trên, pháp luật còn có những quy định khác nữa để công nhận năng lực hành vi của chủ thể như về thể trạng, trình độ chuyên môn, tài sản...

Thực tế, không phải mọi chủ thể của quan hệ pháp luật đều có thể chủ động tham gia vào các quan hệ pháp luật và tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế. Đây là những trường hợp chủ thể của quan hệ pháp luật không đủ hoặc không có năng lực hành vi trong các mối quan hệ pháp luật cụ thể. Khi đó, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ phải thông qua hoạt động của các cá nhân hoặc tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

- Đối với người nước ngoài, người không có quốc tịch, họ có thể trở thành chủ thể của các quan hệ pháp luật nhất định. Về nguyên tắc, họ được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân. Trong sự phát triển chung của xã hội, các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia và sự xáo động dân cư là tất yếu. Số lượng người nước ngoài, người không có quốc tịch đến sinh sống tại một quốc gia là đáng kể. Họ được tham gia vào nhiều mối quan hệ pháp luật như công dân của nước sở tại. Tuy nhiên, vì những lí do khác nhau mà họ có thể bị hạn chế không được tham gia một số quan hệ pháp luật. Đây là những mối quan hệ pháp luật có liên quan trực tiếp đến lợi ích, an ninh của một quốc gia. 

* Tổ chức: Do nhu cầu phát triển của xã hội, tham gia vào các mối quan hệ pháp luật không chỉ có các cá nhân mà cần thiết còn có sự tham gia của các tổ chức. Tổ chức, đó là tập thể người liên kết chặt chẽ với nhau để hoạt động chung, thực hiện những công việc nhất định nhằm mục đích nào đó. Trong xã hội có nhiều loại tổ chức khác nhau và được tham gia vào các mối quan hệ pháp luật khác nhau. Sự khác nhau này do năng lực chủ thể mà nhà nước quy định cho các loại tổ chức khác nhau. Các tổ chức là chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm: Pháp nhân, nhà nước và các tổ chức khác. 

- Phân nhân: Trong khoa học pháp lí, khái niệm này dùng để chỉ các tổ chức được các cá nhân hoặc nhà nước tạo nên. Đó là những tổ chức được tạo ra để hoạt động vì lợi ích chung của các thành viên tổ chức hoặc lợi ích của xã hội. Để có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể độc lập, pháp nhân cũng phải có năng lực chủ thể. Khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và giải thể pháp nhân. 

Mỗi pháp nhân thành lập có mục đích, nhiệm vụ khác nhau. Do đó, năng lực chủ thể của pháp nhân phải phù hợp với mục đích của pháp nhân và các pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thể khác nhau. Pháp nhân là khái niệm pháp lí phản ánh địa vị pháp lí của tổ chức. Để được công nhận là pháp nhân, tổ chức phải có những điều kiện sau:

+ Là tổ chức hợp pháp. Tổ chức đó do nhà nước thành lập, thừa nhận hoặc cho phép thành lập và có tên gọi riêng.

+ Có cơ cấu thống nhất và hoàn chỉnh thể hiện ở sự tồn tại của cơ quan lãnh đạo và các bộ phận cấu thành của nó. Toàn bộ hoạt động của pháp nhân đặt dưới sự chỉ đạo của cơ quan lãnh đạo và chính cơ quan lãnh đạo phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của pháp nhân.

+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Sự tồn tại của tài sản riêng thể hiện ở quyền sở hữu và quyền quản lí của pháp nhân đối với bộ phận tài sản nhất định. Bằng tài sản riêng, pháp nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình.

+ Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hậu quả phát sinh từ mọi hoạt động của pháp nhân.

Pháp nhân cũng bao gồm nhiều loại và có năng lực chủ thể khác nhau. Tức là mỗi loại được tham gia vào các mối quan hệ pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, có những quan hệ pháp luật mà pháp nhân không được tham gia như quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật hôn nhân...

Trong thực tế, có sự tồn tại của các pháp nhân nước ngoài. Cũng như loại chủ thể cá nhân, pháp nhân nước ngoài được tham gia và hưởng các quyền và nghĩa vụ như pháp nhân trong nước, ngoại trừ một số lĩnh vực.

- Nhà nước: Để thực hiện việc quản lí mọi mặt của đời sống xã hội, nhà nước phải trực tiếp tham gia vào một số mối quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể đặc biệt. Nhà nước là tổ chức chính trị-quyền lực và là người đại diện chính thức cho toàn xã hội nên nhà nước chỉ tham gia những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất. Đó là các quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật về sở hữu nhà nước... Tính đặc biệt trong tư cách chủ thể của nhà nước thể hiện: Nhà nước tự quyết định loại quan hệ pháp luật mà nhà nước sẽ tham gia và tự quy định cho mình các quyền trong các quan hệ đó. Nhà nước tham gia vào các quan hệ này nhằm bảo vệ những lợi ích cơ bản nhất của nhà nước và xã hội.

- Các tổ chức khác: Đây là những tổ chức không có tư cách pháp nhân. Bao gồm các tổ hợp tác, hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị thành viên của pháp nhân... Các tổ chức này tham gia vào các mối quan hệ pháp luật với năng lực chủ thể hạn chế hơn so với pháp nhân. 

Vấn đề chủ thể của quan hệ pháp luật sẽ được nghiên cứu cụ thể hơn trong mỗi ngành luật cụ thể.


2. Nội dung của quan hệ pháp luật


Khi tham gia vào quan hệ pháp luật, các chủ thể phải tuân theo cách xử sự mà quy phạm pháp luật đã đặt ra. Cách xử sự này được nhà nước đảm bảo thực hiện và quy định khác nhau đối với các bên tham gia trong một quan hệ pháp luật. Ví dụ: Trường Đại học Luật Hà Nội kí với công ti A hợp đồng mua một số máy vi tính để dạy học. Trong quan hệ pháp luật này hai bên thỏa thuận với nhau về giá cả, chất lượng, chủng loại máy, thời gian và phương thức giao hàng... Trường Đại học Luật Hà Nội nhận hàng và phải trả tiền còn công ti A phải giao hàng và được nhận tiền theo thỏa thuận. Các cách xử sự như vậy của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật gọi là các quyền và nghĩa vụ chủ thể do pháp luật quy định, tạo thành nội dung của quan hệ pháp luật

Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật

* Quyền chủ thể: Là khả năng của chủ thể được xử sự theo những cách thức nhất định mà pháp luật cho phép. 

Trong quan hệ pháp luật, nhà nước cho phép chủ thể có thể tiến hành những hoạt động nhất định. Tùy theo mong muốn của mình mà chủ thể có thể thực hiện hay không thực hiện những hoạt động này. Nói cách khác, chủ thể có thể thực hiện nếu thấy có lợi cho mình hoặc từ chối nếu thấy không cần thiết phải làm như vậy. Ví dụ: Trong quan hệ mua bán trên, bên mua có thể thỏa thuận về giá cả, phương thức giao hàng hoặc cũng có thể chấp nhận những điều kiện mà bên bán đặt ra mà không tiến hành thỏa thuận nếu thấy không cần thiết...

Quyền chủ thể bao gồm những khả năng sau:

+ Có thể tự thực hiện những hành động nhất định hay còn gọi là tự xử sự. Chủ thể bằng chính hành động của mình tiến hành cách xử sự mà pháp luật quy định nhằm đạt được lợi ích của chủ thể.

+ Có thể yêu cầu chủ thể bên kia của quan hệ phải thực hiện những hành động nào đó để đáp ứng việc thực hiện quyền của mình, yêu cầu chấm dứt những hành động cản trở việc họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí.

+  Có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại.

Quyền chủ thể là sự thống nhất giữa ba khả năng trên. Các khả năng này có ý nghĩa khác nhau trong nội dung khái niệm quyền chủ thể. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật, các chủ thể có đầy đủ cả ba khả năng này còn việc chủ thể sử dụng khả năng nào là tùy thuộc vào ý muốn của chủ thể.

Quyền chủ thể là phạm trù pháp lí có giới hạn. Trong một số quan hệ pháp luật, chủ thể có thể tự mình thực quyền chủ thể hoặc có thể ủy quyền cho người khác thực hiện quyền của mình.

* Nghĩa vụ chủ thể: Là cách xử sự mà chủ thể buộc phải thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác.

Nghĩa vụ pháp lí tự nó không phải là hành vi mà là sự bắt buộc chủ thể phải xử sự, là sự cần thiết phải xử sự như vậy. Nếu sự cần thiết này được thể hiện trong hoạt động thực tiễn thì nghĩa vụ pháp lí đã được thực hiện. Ví dụ: Trong quan hệ pháp luật mua bán nêu trên, sự cần thiết phải xử sự của người bán là phải giao hàng đúng số lượng, chất lượng, không được tráo đổi hàng...

Nghĩa vụ pháp lí bao gồm những sự cần thiết phải xử sự sau:

+ Phải tiến hành một số hoạt động nhất định.
+ Phải kiềm chế không thực hiện một số hoạt động nhất định
+ Phải chịu trách nhiệm pháp lí khi xử sự không đúng với những quy định của pháp luật

Những sự cần thiết trên là thống nhất trong nghĩa vụ chủ thể, không thể thiếu được sự cần thiết nào; bởi vì nó liên quan đến việc thực hiện các khả năng tương ứng trong quyền chủ thể phía bên kia.

Trong một số quan hệ pháp luật, chủ thể có thể tự mình thực hiện nghĩa vụ hoặc có thể ủy quyền cho người khác thực hiện nghĩa vụ.

Quyền và nghĩa vụ chủ thể bao giờ cũng là thể thống nhất. Quyền của bên này là nghĩa vụ tương ứng đối với bên kia và ngược lại. Không có quyền nằm ngoài mối liên hệ với nghĩa vụ đảm bảo cho quyền đó được thực hiện; ngược lại không có nghĩa vụ nằm ngoài mối liên hệ với quyền chủ thể. Đây là biểu hiện của mối liên hệ chặt chẽ giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật cụ thể.

Quyền và nghĩa vụ chủ thể do pháp luật quy định (là phạm trù pháp lí có giới hạn) nhưng số lượng, nội dung các hoạt động mà chủ thể tiến hành trong quan hệ pháp luật cụ thể do các bên xác lập.

Trong một số trường hợp, chủ thể của quan hệ pháp luật không trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí của mình. Vì những lí do khác nhau, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể được giao cho các cá nhân và tổ chức không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật. Ví dụ: Người đại diện hợp pháp của đứa trẻ thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật thừa kế nêu trên.


3. Khách thể của quan hệ pháp luật


Trong đời sống, con người có rất nhiều nhu cầu khác nhau. Để thỏa mãn các nhu cầu, các cá nhân và tổ chức tham gia vào các mối quan hệ pháp luật. Họ phải tiến hành những hoạt động nhất định. Trong đó, chủ thể này thực hiện quyền để đạt được lợi ích của mình thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể kia. Các bên chỉ có thể đạt được những lợi ích của mình khi họ thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ pháp lí mà pháp luật quy định.

Như vậy, cái thỏa mãn nhu cầu của con người chính là lợi ích. Muốn đạt được lợi ích, các cá nhân, tổ chức phải tham gia quan hệ pháp luật. Ví dụ: Trong quan hệ mua bán nhà ở, người mua mong muốn có được ngôi nhà như ý để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, người bán muốn có được số lượng tiền nhất định. Đây là lợi ích vật chất mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia quan hệ mua bán này.

Lợi ích mà các chủ thể đạt được khi tham gia quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần, những lợi ích này các chủ thể đạt được thông qua việc các chủ thể thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ.

Lợi ích là cái thúc đẩy các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật và gọi là khách thể của quan hệ pháp luật.

Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, tinh thần hoặc các lợi ích xã hội khác mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia các quan hệ pháp luật.

Khách thể của quan hệ pháp luật rất đa dạng tùy thuộc vào từng loại quan hệ pháp luật khác nhau: Kết quả công việc trong hợp đồng khoán việc; quyền sở hữu trong quan hệ thừa kế, tặng cho; quyền sử dụng trong quan hệ thuê mượn tài sản; giá trị nghệ thuật trong hợp đồng biểu diễn nghệ thuật...; giá trị sức lao động trong quan hệ lao động...).

Khách thể của quan hệ pháp luật có thể là:

- Những lợi ích vật chất như tiền vàng, đá quý, nhà cửa, phương tiện đi lại, các loại hàng hóa, vật dụng...

- Những lợi ích phi vật chất như các giá trị văn hóa nghệ thuật, sức khỏe, quyền tác giả, tên gọi...

- Những hoạt động xã hội như phục vụ hành khách đi tàu xe, vận chuyển hàng hóa, mít tinh, hội họp...

Lợi ích mà các chủ thể hướng tới trong quan hệ pháp luật phải phù hợp với lợi ích của nhà nước và của xã hội nói chung. Do đó có những lợi ích vật chất, tinh thần mà các chủ thể không được hướng tới trong các mối quan hệ pháp luật. Ví dụ: Cũng là để thỏa mãn nhu cầu nâng cao đời sống tinh thần nhưng các cá nhân, tổ chức không thể truyền bá những tác phẩm văn hóa lạc hậu, không lành mạnh. Bởi vì giá trị tinh thần đạt được không phù hợp với lợi ích của xã hội.

Khách thể của quan hệ pháp luật là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa đối với việc phân tích sự vận động của quan hệ pháp luật. Khách thể của quan hệ phản ánh lợi ích của chủ thể cho nên sự quan tâm nhiều hay ít của chủ thể đối với khách thể là động lực thúc đẩy sự phát sinh, tồn tại hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Hơn nữa, lợi ích chính là cái thỏa mãn nhu cầu của con người. Khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì nhu cầu của con người cũng thay đổi theo. Đây là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dự báo trước sự xuất hiện của các quan hệ xã hội mới từ đó kịp thời ban hành pháp luật.

Vấn đề khách thể của quan hệ pháp luật sẽ được nghiên cứu cụ thể hơn trong mỗi ngành luật cụ thể.


III. SỰ KIỆN PHÁP LÍ.


1. Khái niệm

Các cá nhân, tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí khi tham gia quan hệ pháp luật. Nhưng tự các mối quan hệ pháp luật không tồn tại sẵn trong đời sống mà phải có sự tác động của những yếu tố nhất định. Do nhu cầu của chủ thể, họ còn muốn thay đổi các quyền và nghĩa vụ pháp lí đang thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật nào đó. Ví dụ: Anh A và chị B sau thời gian tìm hiểu muốn tiến tới quan hệ hôn nhân. Họ phải xin đăng kí kết hôn tại ủy ban nhân dân và quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng của anh A, chị B sẽ phát sinh khi có quyết định cho đăng kí kết hôn của ủy ban nhân dân trên cơ sở những quy định của pháp luật. Như vậy, vấn đề phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Quan hệ pháp luật phát sinh thay đổi, chấm dứt dưới tác động của 2 điều kiện: Quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lí.

* Quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do nhà nước ban hành để tác động tới quan hệ xã hội và biến nó thành quan hệ pháp luật. Nội dung của quy phạm bao giờ cũng xác định rõ phạm vi tác động của quy phạm pháp luật. Phạm vi tác động của quy phạm pháp luật thể hiện ở hai khía cạnh:

Một là xác định điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế cuộc sống hay quan hệ xã hội nào được đề cập trong quy phạm

Hai là xác định cá nhân, tổ chức cụ thể nào phải tuân theo cách thức xử sự của quy phạm pháp luật. Cá nhân, tổ chức mà quy phạm đề cập phải có những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Nghĩa là họ phải có năng lực chủ thể. 

Phạm vi tác động của các quy phạm khác nhau. Mỗi quy phạm có sự xác định khác nhau về điều kiện, hoàn cảnh sẽ xảy ra trong thực tế cũng như loại chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.

Nếu không có sự tác động của quy phạm pháp luật thì quan hệ xã hội không thể trở thành quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, nếu chỉ có quy phạm pháp luật xác định quan hệ nào là quan hệ pháp luật thì cũng chưa thể có quan hệ pháp luật cụ thể xảy ra trên thực tế. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình vẫn tồn tại nhưng quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng không thể nảy sinh hay chấm dứt nếu thiếu yêu cầu của các cá nhân và quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, quy phạm pháp luật mới chỉ là điều kiện tiền đề để xác định quan hệ pháp luật.

* Sự kiện pháp lí

Để có quan hệ pháp luật nảy sinh trong thực tê,s các quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể trở thành xử sự thực tế, cụ thể của các cá nhân, tổ chức thì cần phải có điều kiện khác nữa. Đó là những sự kiện thực tế của đời sống mà sự xuất hiện hay mất đi của nó được pháp luật gắn với việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ: Quyết định cho đăng kí kết hôn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở nguyện vọng của đôi nam nữa và quy định của pháp luật đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng của họ. Sự kiện thực tế như vậy gọi là sự kiện pháp lí.

Tóm lại, sự kiện pháp lí là sự kiện thực tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng được pháp luật gắn với việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.

Sự kiện pháp lí là những sự kiện trong số các sự kiện xảy ra trong thực tế, là bộ phận của chúng. Sự kiện pháp lí là sự kiện thực tế được quy định trong pháp luật. Việc thừa nhận hay không thừa nhận sự kiện thực tế nào đó là sự kiện pháp lí đều xuất phát từ lợi ích của xã hội và của giai cấp nắm chính quyền trong xã hội.

Sự kiện pháp lí có thể là sự xuất hiện hay không xuất hiện của sự kiện thực tế. Tức là quan hệ pháp luật có thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt khi xuất hiện sự kiện thực tế hoặc khi không xảy ra sự kiện thực tế nào đó theo quy định của pháp luật.

2. Phân loại

Sự kiện pháp lí rất đa dạng và phức tạp, có thể xảy ra do biến cố của thiên nhiên, quy luật sinh tồn hoặc sự tác động của con người... có thể gồm một hoặc nhiều sự kiện xảy ra trong thực tế đời sống. Do vậy, cần thiết phải có sự phân loại sự kiện pháp lí để làm rõ ý nghĩa của sự kiện pháp lí trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật cũng như vai trò của nó đối với sự vận động của các quan hệ pháp luật.

* Dựa vào tiêu chuẩn ý chí, sự kiện pháp lí được chia thành sự biến và hành vi.

- Sự biến: Là những hiện tượng xảy ra trong tự nhiên hoặc trong xã hội nằm ngoài ý chí của con người. Ví dụ: Cái chết của con người do bệnh làm chấm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân, cha con... Sự biến có hai loại là sự biến tuyệt đối và sự biến tương đối.

+ Sự biến tuyệt đối: Là sự kiện xảy ra hoàn toàn không có sự tác động của con người. Ví dụ: Hiện tượng động đất, bão lụt gây thiệt hại tính mạng, sức khỏe, tài sản... của con người.

+ Sự biến tương đối: Là sự kiến xảy ra mà sự phát sinh của nó do tác động của con người nhưng sự tiến triển và chấm dứt của nó thì con người không kiềm chế được. Ví dụ: Cái chết của con người do bị tiêm nhầm thuốc.

- Hành vi: Là những sự kiện xảy ra theo ý chí của con người, biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ví dụ: Hành vi giao kết hợp đồng kinh tế, hành vi bỏ mặc không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng... Hành vi gồm hai loại là hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp. Chúng ta sẽ đề cập kĩ hơn trong phần nghiên cứu về hành vi pháp luật.

* Dựa vào số lượng sự kiện thực tế tạo thành sự kiện pháp lí, sự kiện pháp lí có hai loại là sự kiện pháp lí đơn nhất và sự kiện pháp lí phức hợp.

- Sự kiện pháp lí đơn nhất: Là sự kiện chỉ bao gồm một sự kiện thực tế mà pháp luật gắn sự xuất hiện của nó với việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật

- Sự kiện pháp lí phức hợp: Là sự kiện bao gồm nhiều sự kiện thực tế mà nếu thiếu đi một trong các sự kiện cấu thành tập hợp đó thì quan hệ pháp luật không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt.

No comments:

Post a Comment