Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng có nội dung chủ yếu được xác định là phải tiến hành những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự vô tư trong việc tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; trường hợp có căn cứ cho thấy họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì phải thay đổi. Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này.
I:Khái niệm người tiến hành tố tụng:
Người tiến hành tố tụng dân sự là người thực hiện nhiệm vụ,quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Những người tiến hành tố tụng đều là các công chức nhà nước,được thay mặt các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc giải quyết vụ việc dân sự,thi hành án dân sự va kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng.Hoạt đông tố tụng của họ có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyêt vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
II:Khái niệm người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng dân sự là người tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự để bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ tòa án,cơ quan thi hành án trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Việc tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của tòa án và việc bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp của đương sự.Do đó họ phải sự vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Theo quy định tại Điều 16 BLTTDS thì những người tiến và tham gia tố tụng dân sự gồm có: Chánh án Tòa án, thẩm phán,Hội thẩm nhân dân,Thư ký Tòa án,Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,người phiên dịch, người giám định.Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng giúp tòa án làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự,các vấn đề ấy được thực hiện thông qua nhiệm vụ,quyền hạn của họ trong quá trình tố tụng.Chánh án là người tiến hành tố tụng đứng đầu tòa án,Chánh án tòa án có nhiệm vụ tổ chức việc giải quyết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của tòa án như quyết định phân công Thẩm phán,Hội thẩm nhân dân để giải quyết các vụ việc dân sự…vv.Tiến hành các hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật như ra các quyết định tố tụng theo thẩm quyền để giải quyết vụ việc dân sự,quyết định việc thay đổi thẩm phán,hội thẩm nhân dân…vv.Giải quyết các khiếu nại,tố cáo về việc giải quyết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.Bộ luật TTDS quy định cụ thể quyền,nghĩa vụ của chánh án tòa án tại các Điều 40, 125, 172, 257, 285, 382, 401 và một số điều luật khác.
Thẩm phán là người tiến hành tố tụng dân sự chủ yếu nên trong tố tụng họ có các nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu là: Tiến hành lập hồ sơ vụ việc dân sự; Xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật quy định…vv.Việc thực hiên đúng các quyền,nghĩa vụ tố tụng của thẩm phán có tính chất quyết định kết quả giải quyết vụ việc dân sự.Do vậy, các quyền và nghĩa vụ của thẩm phán trong tố tụng dân sự đã được quy định cụ thể tại các điều 41, 85, 100, 173, 184, và một số điều luật khác của BLTTDS.
Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng được bầu để tiến hành xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án, nhiệm vụ, quyền hạn của họ là:Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa,tham gia hội đồng xét xử các vụ án dân sự …vv.Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử không thường xuyên như thẩm phán nhưng có vai trò rất lớn trong việc giải quyết vụ án dân sự. Để bảo đảm hiệu quả hoạt động xét xử của hội thẩm nhân dân, các quyền và nghĩa vụ của họ đã được pháp luật quy định cụ thể tại các điều 11,12,42,222 và 236 BLTTDS.
Thư kí tòa án có nhiệm vụ chủ yếu là lập các biên bản về tố tụng, ngoài ra thư kí toàn án cũng thực hiện các nhiệm vụ khác được giao, nhiệm vụ, quyền hạn của họ: Lập các biên bản tố tụng như biên bản hòa giải, biên bản lấy lời khai, biên bản phiên tòa,…Thực hiên các công việc theo ủy quyền của thẩm phán như xác minh, thu thập chứng cứ khi đương sự yêu cầu: Những nhiệm vụ, quyền hạn đó của thư kí tòa án trong tố tụng dân sự hiện nay đã được quy định cụ thể tại các điều 43,148,186,211 BLTTDS.
Viện trưởng viện kiểm sát là người chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiêm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các hoạt động nên viện trưởng việ kiểm sát có các nhiệm vụ, quyền hạn là: Tổ chức,chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các hoạt động tố tụng dân sự như quyết định phân công kiểm sát viện kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các hoạt động tố tụng dân sự, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự,…kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự của kiểm sát viên,…Nhiệm vụ quyền hạn của viện trưởng việ kiểm sát được BLTTDS quy định cụ thể tại các điều 44,51,285,307,395 và một số điều luật khác.
Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tố tụng, trong tố tụng dân sự kiểm sát viên có các nhiệm vụ, quyền hạn là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự như lập hồ sơ, hòa giải vụ việc dân sự, ra bản án,…tham gia phiên tòa xét sử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự,…hoạt động kiểm sát của kiểm sát viên có ý nghĩa bảo đảm việc giải quyết đúng các vụ việc dân sự. Để phát huy được vai trò của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự, BLTTDS đã quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong tố tụng tại các điều 45,207,234,271 và một số điều luật khác.
Người giám định là người tham gia tố tụng sử dụng kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn để làm rõ các tình tiết, sự kiện của sự việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, người giám định có các quyền và nghĩa vụ về chuyên môn, vật chất trong việc thực hiện giám định. Việc bảo đảm thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ tố tụng của người giám định ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ, người giám định có quyền, nghĩa vụ đọc các tài liệu có trong hồ sơ vụ việc dân sự liên quan đến đối tượng giám định tham gia vào việc hỏi những người tham gia tố tụng và được đặt các câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định. Các quyền và nghĩa vụ của người giám định trong tố tụng dân sự được quy định tại các điều 68,230 BLTTDS và các điều 12,13 pháp lênh giám định tư pháp.
Người phiên dịch là người tham gia tố tụng dịch ngôn ngữ khác ra Tiếng Việt và ngược lại. Việc tham gia tố tụng của người phiên dịch có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, người phiên dịch cũng có các quyền và nghĩa vụ về lĩnh vực chuyên môn và vật chất như người giám định để thực hiện được nhiệm vụ của mình, người phiên dịch có quyền và nghĩa vụ phải thực hiện việc dịch theo yêu cầu của tòa án trung thực, khách quan, đúng nghĩa, được đề nghị người tiến hành tố tụng , người tham gia tố tụng giải thích thêm lời nói cần phiên dịch,…Các quyền nghĩa vụ tố tụng của người phiên dịch được quy định tại các khoản 1,2,4 điều 70 BLTTDS.
Các hoạt động của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mục đích là đẻ giúp tòa án giải quyết vụ việc dân sự, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm sự công bằng xã hội. Vì thế trong quá trình tham gia tố tụng họ phải vô tư trong khi làm nhiệm vụ, đảm bảo nguyên tắc vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được quy định tại điều 16 BLTTDS.Nếu thấy họ có sự không vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi,sự vô tư của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ,quyền hạn là điều rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự.Tuy vậy, mỗi người tiến hành tố tụng có những nhiệm vụ, quyền hạn riêng nên căn cứ thay đổi những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tung được pháp luật quy định có những điểm không giống nhau.Đó là họ đồng thời là đương sự, người đại diện,người thân thích của đương sự.Họ đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định,người phiên dịch trong cùng vụ án đó. Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.Theo quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 3 năm 2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất những quy định chung của bộ luật tố tung dân sự năm 2004.Theo quy định tại khoản 1 điều 46 BLTTDS thì người thân thích của đương sự là người có cùng quan hệ huyết thống với đương sự là vợ chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,ông bà nội ngoại, anh chị em ruột, cô ruột,của đương sự…Có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1,khoản 2 điều 46 BLTTDS thì trong các trường hợp khác như trong quan hệ thông gia, quan hệ tình cảm, quan hệ kinh tế có căn cứ rõ ràng để thấy rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ mà có căn cứ rõ ràng chứng minh là trong quan hệ cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm thân thiết với nhau, có mối quan hệ về kinh tế…thì phải thay đổi.
Nguyên tắc đặt ra là như thế nhưng để thực hiện được thì rất khó. Bởi lẽ thực tế cũng đã chứng minh điều đó. Tại rất nhiều tòa án có rất nhiều những vụ án đến khi ra phán quyết thì những bản án trong đó ngầm chứa sự oan ức. Cụ thể, tại tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang năm 2007 có một vụ án là thẩm phán và đương sự có mối quan hệ thân thích với nhau, nên trong vụ án đó có sự không vô tư trong khi làm nhiệm vụ giữa thẩm phán và đương sự. Bản án sử thiên vị. Năm đó em rất bất bình và phẫn nộ khi được xem tòa án tỉnh Tuyên Quang xét xử vụ án này, nhưng chi là người ngoài cuộc và cũng không có quyền hành gì nên em cũng chỉ biết ngậm ngùi,đau xót. Vì thế em nghĩ các tòa án nhân dân nên đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức có đạo đức, năng lực, hoặc trong quá trình xét xử nếu phát hiện có những dấu hiệu không vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì phải thay đổi. Thực tế cũng đã chứng minh được một phần công tác này. Tại nhiều tòa án của Việt Nam cũng đã có sự công bằng hơn trong việc thực hiện nguyên tắc này. Tại TPHCM Viện kiểm sát nhân tối cao cũng đã phát hiện ra rất nhiều trường hợp kiểm sát viên phải bị thay đổi khi phát hiện họ là người tiến hành tố tụng trong cùng vụ án đó với tư cách là thẩm phán.Những hoạt động của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là để đảm bảo sự công bằng trong xã hội.BLTTDS quy định biện pháp này là biện pháp quan trọng bởi lẽ xã hội thì muôn hình vạn trạng, chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn ấy đều phải được làm rõ và xét xử công bằng.
�
KẾT LUẬN
Biện pháp bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tung là nguyên tắc quan trọng trong luật tố tụng dân sự.Họ là người thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc hỗ trợ tòa án cơ quan thi hành án trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.Họ là người tham gia trực tiếp vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự như đôn đốc việc giải quyết vụ việc dân sự, tiến hành lập hồ sơ vụ việc dân sự, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, trước phiên tòa phiên họp, trưng cầu giám định khi tòa án yêu cầu, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tòa án. Dịch ngôn ngữ khác ra Tiếng Việt…Họ là người trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng, giải quyết vụ việc dân sự nếu họ vô tư trong khi làm nhiệm vụ, thì vụ việc dân sự mới được giải quyết một cách đúng đắn theo quy định của pháp luật, vụ án sẽ không bị xử thiên lệch.
Nếu có những dấu hiệu cho thấy họ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ như: Họ là người thân thích của đương sự (Họ có cùng quan hệ huyết thống là bó mẹ, anh chị em ruột của đương sự. Thì cần phải thay đổi để đảm bảo sự công bằng trong xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, xử đúng người đúng tội có như thế nhân dân mới vững tin hơn vào đội ngũ cán bộ pháp luậtcủa cơ quan nhà nước, đồng thời củng cố hệ thống pháp luật, đội ngũ cán bộ pháp luật, có tin tưởng vào pháp luật thì người dân mới có tinh thần để sống và làm việc theo pháp luật.
�
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật tố tụng Dân sự - 2004
Bộ luật tố tụng Dân sự - 200
Nghị quyêt của Hội đồng thẩm phán Toà án NDTC số 01/2005/NQ - HĐTP ngày 31/3/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
No comments:
Post a Comment