CHƯƠNG IX
Ý THỨC PHÁP LUẬT
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI Ý THỨC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Theo triết học Mác-xít, phạm trù ý thức nói chung thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần. Ý thức là sản phẩm được hình thành trên nền tảng cấu trúc vật chất chính là não bộ người.
Ý thức pháp luật là dạng ý thức xã hội – sản phẩm của sự tiến hóa mà con người có được thông qua quá trình lao động, sáng tạo và hình thành ngôn ngữ. Tuy nhiên, xét về cội nguồn ý thức pháp luật xuất hiện muộn hơn so với các loại ý thức xã hội khác. Trong đời sống pháp lí, ý thức pháp luật là nhân tố đóng vai trò quyết định chi phối trực tiếp đến tính chất, hiệu quả thực tế của các hoạt động pháp lí. Vì vậy, có thể nói không có yếu tố nào của quá trình điều chỉnh pháp luật lại không liên quan hoặc không bị quy định bởi ý thức pháp luật. Việc nghiên cứu ý thức pháp luật trong điều kiện thực hiện quản lí xã hội bằng pháp luật không đơn thuần chỉ để nhận thức lí luận mà còn có tính thực tiễn cao.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm hình thành trong xã hội thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật và sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp đối với các hành vi pháp lí thực tiễn.
Trong xã hội có giai cấp, sự tồn tại của ý thức pháp luật chịu sự tác động đa chiều của nhiều yếu tố cơ bản như nền tảng kinh tế, kết cấu xã hội, tương quan so sánh lực lượng, giới hạn của giai cấp cầm quyền, cơ chế đảng trị, động lực xã hội, xu thế thời đại…
Ý thức pháp luật là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, thế giới quan giai cấp cũng như quan niệm xã hội. Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội quyết định. Trong xã hội có giai cấp, sự khác nhau về điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội đã đem lại sự khác nhau nhất định về ý thức pháp luật.
2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là dạng cụ thể của ý thức xã hội, do đó ý thức pháp luật mang đầy đủ những đặc điểm của ý thức xã hội. Đồng thời, ý thức pháp luật cũng thể hiện tính đặc thù, riêng biệt của mình so với ý thức xã hội khác trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển. Đó là:
a. Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính chất giai cấp sâu sắc
Trong đời sống xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm phương thức sản xuất vật chất thì quyết định sự tồn tại xã hội và tất yếu dẫn đến sự thống trị về mặt tinh thần đối với cả xã hội. Là sản phẩm trực tiếp của giai cấp cầm quyền, ý thức pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của ý thức pháp luật nói chung được phản ánh rõ nét ở đời sống pháp lí của xã hội và ở ý thức sinh hoạt đời thường của các cá nhân trong xã hội. Điều này thể hiện ở những điểm cơ bản:
Thứ nhất, ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền là tiền đề để xây dựng các giá trị, chuẩn mực pháp lí đối với xã hội.
Về nguyên tắc, ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền bao giờ cũng được thể hiện một cách chính thống trên thực tế thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đó thực chất là nơi chứa đựng các chuẩn mực pháp lí có nội dung xác định giới hạn về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với các loại chủ thể khi tham gia hoạt động pháp lí. Hệ thống văn bản pháp luật đó cũng là cơ sở ghi nhận, hợp pháp hóa các giá trị mà giai cấp thống trị đưa ra (hoặc thừa nhận) nhằm mong muốn nó được phổ biến trong xã hội. Do được tồn tại trong các văn bản pháp luật nên các chuẩn mực pháp lí có thể mang tính quy phạm hoặc cá biệt. Khi các chuẩn mực đó được thực hiện, áp dụng trên thực tế, nó mang tính bắt buộc đối với các chủ thể. Nhà nước, xã hội hình thành cơ chế bảo vệ các chuẩn mực pháp lí thích ứng với từng lĩnh vực.
Thứ hai, ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền là cơ sở để hình thành thế giới quan pháp lí chính thống trong xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, địa vị kinh tế, chính trị cũng như bản chất của các giai cấp có sự khác nhau nhất định nên ý thức của mỗi giai cấp về các vấn đề xã hội tất nhiên cũng không đồng nhất. Thế giới quan giai cấp là quan niệm của từng giai cấp về các vấn đề xã hội, là biểu hiện của ý thức hệ giai cấp đối với từng lĩnh vực xã hội cụ thể. Về nguyên tắc, thế giới quan của giai cấp thống trị bao giờ cũng mang tính chính thống trong xã hội. Đây là yếu tố chi phối quan niệm, cách đánh giá, phương pháp tiếp cận các vấn đề xã hội, từ đó định hướng các hoạt động xã hội. Thế giới quan pháp lí là quan điểm, cách nhìn nhận và tiếp cận các phạm trù pháp lí, các hoạt động pháp lí thực tiễn. Thế giới quan pháp lí có vai trò chỉ đạo quá trình nhận thức và thực thi pháp luật của cá chủ thể. Tuy vậy, thế giới quan pháp lí chỉ có thể hình thành và mang tính thực tế khi các chủ thể có sự hiểu biết pháp luật và có thái độ, niềm tin pháp lí đúng đắn tích cực, nghĩa là họ phải có ý thức pháp luật ở mức độ cần thiết.
Thứ ba, sự chọn lọc của giai cấp cầm quyền về kế thừa đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật cũ.
Sau mỗi cuộc cách mạng xã hội, giai cấp mới lên cầm quyền xã hội không thể xóa bỏ một cách tuyệt đối toàn bộ điều kiện tồn tại của xã hội cũ. Điều đó càng không thể thực hiện được đối với lĩnh vực ý thức. Tuy nhiên, đối với các giai cấp thống trị, việc kế thừa ý thức pháp luật bao giờ cũng diễn ra trên cơ sở có sự chọn lọc. Về nguyên tắc, sự chọn lọc đó phải phù hợp với điều kiện tồn tại của giai cấp đó. Mặc dù ý thức pháp luật của từng giai cấp có sự khác nhau nhưng mỗi hình thái ý thức pháp luật ít hoặc nhiều đều có những nhân tố phù hợp khách quan với điều kiện tồn tại xã hội cụ thể. Ở những mức độ nhất định, từng giai cấp thống trị có thể chấp nhận, sử dụng những nhân tố hợp lí của ý thức pháp luật cũ trên cơ sở phủ định bản chất giai cấp của nó.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp (như xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản) thì ý thức pháp luật cũng mang tính đối kháng. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, ý thức pháp luật chính thống là ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, trong đó ý thức pháp luật của giai cấp công nhân với tư cách là những quan điểm, tư tưởng tiến bộ nhất ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng đến ý thức pháp luật của các giai cấp khác. Như vậy, xét về mặt bản chất thì ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân. Về nguyên tắc, chỉ có hình thái (dạng) ý thức pháp luật của giai cấp này mới được thể hiện, phản ánh đầy đủ trong pháp luật. Tuy nhiên, do sứ mệnh lịch sử, vai trò và giới hạn giai cấp của giai cấp vô sản với mục tiêu giảm dần sự khác biệt xã hội, liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nên ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và ý thức pháp luật của các tầng lớp nhân dân lao động có nội dung tương đối thống nhất và ngày càng xích lại gần nhau hơn. Tương ứng với sự tiến hóa của lịch sử xã hội, sự tiêu vong của nhà nước và pháp luật thì ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa (với tư cách là ý thức pháp luật cao nhất và tiến bộ nhất) cũng sẽ tự mất đi bản chất chính trị, thuộc tính giai cấp của nó để chuyển hóa thành một dạng ý thức xã hội thuần túy phi giai cấp.
b. Ý thức pháp luật mang tính độc lập tương đối
Mặc dù là hiện tượng chịu sự chi phối của các yếu tố của điều kiện tồn tại xã hội nhưng ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối của nó. Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội: Là một trong các nhân tố phản ánh điều kiện tồn tại xã hội, ghi nhận sự biến đổi của các quan hệ xã hội nhưng nhìn chung ý thức pháp luật thường bộc lộ sự lạc hậu của nó so với tồn tại xã hội. Sự lạc hậu đó diễn ra dưới hai khả năng:
Một là khi điều kiện tồn tại có những nhân tố mới xuất hiện nhưng ý thức pháp luật lại chưa phản ánh, ghi nhận kịp thời sự biến đổi đó. Lí do cơ bản đem lại thực trạng này là không phải sự biến đổi nào của điều kiện tồn tại cũng được phản ánh tức thời lên ý thức chủ quan của con người và cũng không phải sự biến đổi nào diễn ra con người cũng có khả năng nhận biết được một cách kịp thời, đầy đủ.
Hai là khi điều kiện tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức pháp luật tương ứng với nó vẫn tồn tại dai dẳng trong thời gian nhất định. Điều này dễ nhận thấy trong lĩnh vực tình cảm pháp luật bởi sự thay đổi của nó diễn ra càng chậm chạp do ảnh hưởng của thói quen, tập quán và truyền thống. Chẳng hạn, ở nước ta điều kiện tồn tại của thời kì tập trung, quan lieu, bao cấp đã bị từ bỏ nhưng thực tế quan niệm, tư duy của cơ chế quản lí cũ đó vẫn chi phối, cản trở nhất định đối với các chủ thể trong các hoạt động pháp lí thực tiễn.
- Ý thức pháp luật mang tính kế thừa: Sự kế thừa trong ý thức pháp luật cũng là biểu hiện về tính độc lập và sự đan xen trong quá trình tồn tại của hiện tượng này. Sự kế thừa trong ý thức pháp luật diễn ra có thể theo cả chiều hướng tích cực, tiến bộ hoặc ngược lại. Chẳng hạn, sự kế thừa của giai cấp vô sản về các quan điểm tiến bộ đối với quyền con người, giá trị xã hội công dân hoặc pháp quyền trong ý thức pháp luật tư sản là sự kế thừa mang tính tích cực xét cả về phương diện nội dung và quan điểm tiếp cận. Như vậy, cần phải có thái độ biện chứng khi xem xét ý thức pháp luật, bởi nó là hiện tượng phức tạp vừa phụ thuộc vào tồn tại xã hội vừa có tính độc lập tương đối.
- Ý thức pháp luật tác động qua lại với tồn tại xã hội, các hình thái ý thức xã hội khác và các hiện tượng của kiến trúc thượng tầng pháp lí: Trong sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội thì mỗi loại hình ý thức phản ánh một số đối tượng nhất định, phạm vi nhất định của tồn tại xã hội, vì vậy giữa chúng có mối quan hệ và tác động lẫn nhau. Nhìn chung sự tác động của ý thức pháp luật đối với tồn tại xã hội, đối với các phạm trù ý thức xã hội và các hiện tượng xã hội khác diễn ra theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Ở đây cần nhận thấy sự khác biệt nhất định từ các phương diện cơ bản:
+ Sự tác động của ý thức pháp luật đối với tồn tại xã hội không diễn ra một cách trự tiếp mà thông qua hành vi pháp luật.
+ Sự tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo… luôn thể hiện sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình tồn tại và vận động. Sẽ là sự tác động tích cực nếu có sự phù hợp giữa ý thức pháp luật với các loại hình ý thức đó và ngược lại, đó sẽ là nhân tố cản trở lẫn nhau nếu giữa các phạm trù ý thức đó thiếu đi sự tương đồng cần thiết.
+ Sự tác động qua lại giữa ý thức pháp luật đối với các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng pháp lí như nhà nước, pháp luật luôn là sự tương tác cơ bản và có ý nghĩa quan trọng nhất. Ý thức pháp luật chi phối trực tiếp việc hình thành hệ thống cơ quan nhà nước và quá trình thực thì quyền lực nhà nước. Ý thức pháp luật là nhân tố tiền đề cho việc xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
- Tính vượt lên trước của tư tưởng khoa học về pháp luật: Đối với hệ tư tưởng pháp luật thì tri thức khoa học là yếu tố cơ bản bởi nó có thể đem lại sự nhìn nhận khách quan đối với tồn tại xã hội. Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng khoa học có tính dẫn đường, đi trước đối với tồn tại xã hội. Điều này không đơn thuần khẳng định sự độc lập tương đối của ý thức pháp luật so với tồn tại xã hội mà nó là tiền đề tư tưởng- pháp lí trực tiếp góp phần phục vụ cho quá trình điều chỉnh pháp luật và công cuộc cải tạo xã hội trên thực tế.
3. Các loại ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật biểu hiện trên thực tế đa dạng và trừu tượng. Việc nhận diện các dạng thức tồn tại của ý thức pháp luật là thiết thực bởi nó góp phần phục vụ cho công tác nghiên cứu lí luận và xem xét các hoạt động pháp lí thực tiễn. Tuy nhiên trên thực tế, việc phân loại ý thức pháp luật cũng chỉ mang tính tương đối, bởi lẽ về bản chất nó là phạm trù chủ quan được quyết định bởi chính nhân tố con người. Do đó, để nhận diện các trạng thái của ý thức pháp luậ trên thực tế cần phải thông qua đặc điểm chủ thể và các hoạt động pháp lí thực tiễn.
Thông qua nội dung, tính chất của hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luậ có thể phân ý thức pháp luật thành hai cấp độ khác nhau là ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật mang tính lí luận và ý thức pháp luật chuyên ngành.
- Ý thức pháp luật thông thường biểu hiện ở khả năng phản ánh các hiện tượng pháp lí, khả năng nhận thức pháp luật còn có những hạn định, bên ngoài, phiến diện và riêng rẽ. Cấp độ ý thức pháp luật này mang tính phổ thông trong xã hội nên nó chưa có tính hệ thống, tính hợp lí và khoa học như ý thức lí luận. Vì vậy, sự khác biệt về địa vị xã hội cũng như hoạt động nhận thức của chủ thể trên thực tế là không đáng kể. Ý thức pháp luật thông thường có tính ổn định không cao như ý thức pháp luật mang tính lí luận nhưng có tính sống động, linh hoạt hơn vì nó sát thực và gần gũi với đời sống hiện thự xã hội. Chính vì lẽ đó mà không thể coi thường, xem nhẹ vai trò của cấp độ ý thức pháp luật này đối với đời sống pháp lí. Trên thực tế, cấp độ ý thức pháp luật này vẫn tồn tại ngay cả trong môi trường đã có sự phát triển cao về nhận thức, điều chỉnh pháp luật cũng như sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
- Ý thức pháp luật mang tính lí luận thể hiện sự nhận thức về pháp luật và các hiện tượng pháp lí một cách sâu sắc, toàn diện cả về bản chất, nội dung và hình thức. Cấp độ ý thức pháp luật này thường đi liền với ý thức và hoạt động khoa học, do đó về mặt chủ thể nó tồn tại chủ yếu các nhà khoa học, luật gia, luật sư hoặc là các giáo viên giảng dạy luật, cá nhân có thẩm quyền trong áp dụng pháp luật v.v.. Ý thức pháp luật mang tính lí luận đa dạng cả về nội dung, cấp độ khái quát cũng như các lĩnh vực tồn tại. Nó không chỉ là những quan điểm lí luận cơ bản về nhận thức bản chất, vai trò giá trị xã hội của pháp luật… mà còn kiến giải cả những mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng xã hội khác. Hơn nữa, ý thức pháp luật mang tính lí luận cũng có thể hình thành cơ sở nhận thức, giải quyết những vấn đề hẹp, chuyên sâu cho quá trình xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và điều chỉnh pháp luật cụ thể.
- Ý thức pháp luật chuyên ngành (hay ý thức pháp luật nghề nghiệp) là dạng ý thức được nhận diện theo từng lĩnh vực nghề nghiệp. Xét về nội dung và yêu cầu, các loại ý thức này vừa mang những đặc điểm của ý thức pháp luật nói chung vừa có những đặc điểm đặc thù, riêng biệt của từng lĩnh vực chuyên ngành cụ thể. Chẳng hạn, ý thức pháp luật trong lĩnh vực xây dựng có những nội dung, yêu cầu, cách thức thể hiện, cấp độ tồn tại khác biệt nhất định so với ý thức pháp luật trong lĩnh vực y khoa. Chính vì lẽ đó mà nhận thức về các quy định pháp luật chuyên môn theo ngành cũng như thái độ pháp lí của các cá nhân, tổ chức ở từng lĩnh vực cụ thể có những điểm đặc thù riêng biệt. Ý thức pháp luật chuyên ngành thể hiện mức độ chuyên sâu về sự hiểu biết, phân tích, đánh giá về những đối tượng thuộc lĩnh vực đó. Do đó, nhìn chung dạng ý thức này đạt cấp độ lí luận và mang tính khoa học có giá trị phục vụ cho việc giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cuộc sống.
Căn cứ vào chủ thể, ý thức pháp luật có thể tồn tại các dạng thức như: Ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội.
- Ý thức pháp luật cá nhân biểu hiện sự hiểu biết pháp luật và thái độ pháp lí của mỗi cá nhân. Nếu ý thức là sản phẩm của con người thì lẽ đương nhiên ý thức pháp luật của cá nhân được coi là dạng thức tồn tại đầu tiên của ý thức pháp luật. Không có ý thức pháp luật ngoài những cá nhân con người cụ thể và sẽ không thể có các dạng ý thức pháp luật của nhóm, tổ chức và cả xã hội nếu thiếu đi ý thức pháp luật cá nhân. Suy cho cùng, các hoạt động xã hội đều được thực hiện bởi hành vi của con người cụ thể cho nên ý thức pháp luật của cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính hợp pháp, thái độ niềm tin pháp lí của cá nhân, do đó các yếu tố thuộc đặc điểm nhân thân con người sẽ chi phối rất lớn đối với cả hai mặt nhận thức và tâm lí. Nhìn chung, ý thức pháp luật của cán nhân đa dạng, phong phú về cấp độ nhận thức và thông thường tính ổn định không cao.
- Ý thức pháp luật nhóm là quan điểm nhận thức và thái độ, tình cảm của nhóm, tổ chức người trong xã hội đối với pháp luật và các giá trị xã hội của pháp luật hoặc là các hiện tượng pháp lí thực tiễn. Ở đây, nhóm là đơn vị xã hội thực chất là tập hợp các cá thể người thường có sự thống nhất về sự hiểu biết pháp luật và thái độ pháp lí. Các nhóm xã hội có những mục tiêu, lợi ích đặt ra khác nhau, khả năng liên kết các thành viên khác nhau nên ý thức pháp luật vừa có tính tương đồng vừa có sự khác biệt nhất định.
- Ý thức pháp luật xã hội là ý thức của bộ phận tiến bộ đại diện cho xã hội chứa đựng các quan điểm, tư tưởng khoa học về những vấn đề cơ bản nhất của pháp luật. Do những đặc điểm cơ bản này mà ý thức pháp luật xã hội thường được chính thức hóa trong toàn xã hội. Tuy nhiên, không phải ý thức pháp luật xã hội bao giờ cũng chính là ý thức của giai cấp cầm quyền. Do đó, không phải lúc nào nó cũng có tính chính thống trong xã hội. Rất nhiều trường hợp, giai cấp thống trị đã lỗi thời, lạc hậu nhưng nó vẫn áp đặt, duy trì ý thức pháp luật của nó đối với toàn xã hội. Chẳng hạn trong xã hội tư bản, ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì nó tiến bộ, tích cực và thuộc về số đông nhưng chưa là ý thức chính thống đối với xã hội vì chính quyền chưa thuộc về họ. Hơn nữa cũng cần phải hiểu là ý thức pháp luật xã hội không có nghĩa là ý thức chung của toàn xã hội mà nó tồn tại trong môi trường không có sự đồng nhất giữa ý thức của các giai cấp, lực lượng xã hội. Ý thức pháp luật xã hội vận động theo xu hướng phù hợp với sự phát triển của cơ sở hạ tầng và những khuynh hướng chính trị phổ biến trong xã hội. Đương nhiên, những nguyên lí của pháp luật, các giá trị nhân bản và những lợi ích thiết yếu của con người đòi hỏi phải nhận thức, thể hiện trong hệ thống pháp luật. Chính vì lẽ đó, ý thức pháp luật xã hội là đối tượng luôn tạo nên sự quan tâm của các đối tượng xã hội từ những giá trị cụ thể được hiện thực hóa bởi nhà nước và các thiết chế xã hội khác.
II. CẤU TRÚC CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT
Ý thức pháp luật là hiện tượng phức tạp trong đời sống pháp lí và trong nhận thức luận. Mặc dù vậy, trong nghiên cứu các ngành khoa học như: Triết học, lí luận về pháp luật nói chung đã có quan niệm thống nhất về cơ cấu của ý thức pháp luật.
Xem xét cấu trúc của ý thức pháp luật tức là xem xét các bộ phận hợp thành ý thức pháp luật. Căn cứ vào nội dung và tính chất, cấu trúc của ý thức pháp luật cần phải được nhìn nhận dưới góc độ cụ thể và góc độ chung.
Ở góc độ cụ thể (tức là gắn với từng cá nhân con người), ý thức pháp luật thể hiện ở hai mặt của phương diện chủ quan là sự hiểu biết pháp luật và thái độ, tình cảm đối với pháp luật của chính con người đó.
Ở góc độ chung, ý thức pháp luật với tính cách là hiện tượng xã hội có hai bộ phận lớn hợp thành là: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật.
1. Hệ tư tưởng pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, học thuyết, trường phái lí luận về pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật là bộ phận ở cấp độ lí luận có tính khái quát, tính hệ thống cao được hình thành một cách tự giác. Hệ tư tưởng pháp luật soi sáng cho tâm lí pháp luật, định hướng các hành vi pháp luật đối với các chủ thể pháp luật. Hệ tư tưởng pháp lí phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, đó là những nhận thức lí luận về tồn tại xã hội. Về mặt nội dung, hệ tư tưởng pháp lí có thể có những nhân tố mang tính khoa học cũng có thể là phản khoa học. Hệ tư tưởng pháp lí khoa học phản ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội và quy luật phát triển khách quan của xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng pháp lí phản khoa học cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng đó là sự phản ánh sai lầm, xuyên tạc và thiếu tính khách quan. Giữa hệ tư tưởng pháp luật và tâm lí pháp luật có mối liên hệ, tác động lẫn nhau vì chúng có chung nguồn gốc là tồn tại xã hội, cùng phản ánh tồn tại xã hội.
Hệ tư tưởng pháp luật không đơn thuần là sản phẩm của giai cấp cầm quyền sáng tạo nên mà nó còn hàm chứa các giá trị khoa học được đúc kết, kế thừa từ thực tế của nền văn minh pháp lí nhân loại.
2. Tâm lí pháp luật
Tâm lí pháp luật được hình thành trên cơ sở nhận thức, biểu hiện tâm trạng, xác cảm, thái độ của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lí khác. Tâm lí pháp luật là yếu tố chủ quan nên quá trình nhận thức, tư duy diễn ra chịu sự chi phối của các đặc điểm về nhân thân của chính con người đó. Tâm lí pháp luật có tính bên vững là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng pháp luật. Cũng như hệ tư tưởng pháp luật, tâm lí pháp luật có thể mang tính tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên, do tâm lí là yếu tố chủ quan nên việc nhận diện những đặc tính của nó đòi hỏi phải có quá trình lâu dài và cần phải thông qua các hành vi pháp luật thực tiễn. Mặt khác, tâm lí pháp luật mặc dù có tính ổn định tương đối nhưng nó cũng có thể biến đổi khi môi trường kinh tế, chính trị và pháp lí có những thay đổi không phù hợp với xu thế của sự vận động mà nó đã có tính ổn định tương đối. Vì vậy, coi trọng yếu tố tâm lí pháp luật đòi hỏi phải quan tâm nhân tố con người trong các hoạt động thực tiễn và điều kiện tồn tại xã hội ở mỗi giai đoạn.
III. QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC PHÁP LUẬT VỚI PHÁP LUẬT.
Ý thức pháp luật cùng với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác tạo thành thượng tầng kiến trúc pháp lý của xã hội. Mặc dù ý thức pháp luật và pháp luật có sự khác nhau căn bản nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ và sự tương tác lẫn nhau. Điều này biểu hiện ở những điểm cơ bản sau:
1. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi phải quan tâm công tác xây dựng pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật là một trong những hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm “đưa” ý chí của giai cấp thống trị lên thành pháp luật. Do đó, xây dựng pháp luật là quá trình dựa trên sự nhận thức đầy đủ về nhu cầu của đời sống thực tiễn, đặc điểm của quan hệ xã hội và mục đích điều chỉnh. Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nếu không có ý thức pháp luật phù hợp với bản chất và điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn phát triển thì không thể đem lại sự hoàn thiện đối với hệ thống pháp luật trên thực tế.
2. Tác động của ý thức pháp luật đối với việc nhận thức và thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích nhằm làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống thông qua hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật một cách chủ động, đúng đắn trước hết phụ thuộc vào sự hiểu biết pháp luật và thái độ pháp lí của chủ thể. Khi chủ thể hiểu được nội dung của các quy phạm pháp luật tức là thấy được những điều mà pháp luật ngăn cấm, cho phép hoặc bắt buộc gắn luền với những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Tham gia các quan hệ pháp luật cụ thể, chủ thể nhận thức được quyền, nghĩa vụ pháp lí và trách nhiệm của mình để từ đó lựa chọn cách ứng xử cho phù hợp. Như vậy, muốn thực hiện pháp luật tốt cần phải hiểu biết pháp luật. Việc thực hiện pháp luật khi kém hiểu biết pháp luật, thụ động sẽ rất khó khăn và trên thực tế, khả năng đảm bảo tính hợp pháp của hành vi thấp, hiệu quả pháp luật không cao. Mặt khác, tình cảm, thái độ pháp lý của chủ thể cũng rất quan trọng. Nó là yếu tố tạo ra sự gắn bó đối với pháp luật, công việc và làm tăng thêm khả năng thực thi quyền, nghĩa vụ của chủ thể.
Như vậy, quá trình thực hiện pháp luật đòi hỏi các chủ thể phải tự mình tạo lập được tiền đề, nền tảng ý thức pháp luật để chủ động xác lập những hành vi trong giới hạn được pháp luật quy định.
3. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động áp dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính cá biệt của các cơ quan nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Muốn áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật cần phải hiểu nội dung của quy phạm, xác định rõ các đặc trưng pháp lý của sự vụ có liên quan để ban hành văn bản áp dụng pháp luật chính xác, hợp pháp. Mọi sai sót trong quá trình cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ hoặc cá biệt hóa chế tài pháp luật đều có nguy cơ phá vỡ tính đúng đắn của quá trình áp dụng pháp luật. Vì vậy, chỉ có thể đem lại hiệu quả tốt nhất cho hoạt động áp dụng pháp luật khi ý thức pháp luật của các cá nhân có thẩm quyền được bảo đảm. Nâng cao trình độ văn hóa pháp lý, ý thức pháp luật hình thành bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng… là những đòi hỏi căn bản đối với những người áp dụng pháp luật trên thực tế.
4. Tác động của pháp luật với ý thức pháp luật
Pháp luật trong sự hình thành, tồn tại và phát huy giá trị luôn chịu sự tác động của ý thức pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng tác động đến sự vận động, phát triển của ý thức pháp luật. Xét từ góc độ chung, sự tồn tại của hệ thống pháp luật bằng nhiều cách sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên nhận thức của các chủ thể, do đó nó trở thành nhân tố, phương tiện thúc đẩy sự phát triển của ý thức pháp luật trên thực tế. Điều này cũng có thể lí giải thêm bởi chính pháp luật là “nguồn”, bộ phận cơ bản để tạo nên nội dung của hệ tư tưởng pháp luật cũng giống như định hướng tâm lí pháp luật đối với các chủ thể. Như vậy, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, khách quan sẽ là điều kiện thiết yếu cho việc nâng cao ý thức pháp luật trên thực tế.
IV. VĂN HÓA PHÁP LÍ.
Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý là hai yếu tố có mối quan hệ tương tác hữu cơ với nhau hết sức chặt chẽ. Theo đó, ý thức pháp luật chính là nền tảng thiết yếu đối với quá trình truyền tải, phản ánh, hiện thực hóa các loại hình, nội dung, giá trị của văn hóa pháp lí. Không thể có đời sống văn hóa pháp lí nếu thiếu đi ý thức pháp luật từ các loại chủ thể pháp luật. Điều này được lí giải bởi ý thức pháp luật là yếu tố bên trong thuộc về chủ quan của chủ thể còn văn hóa pháp lí là yếu tố đòi hỏi được bộc lộ ra bên ngoài thông qua hành vi; các vật thể hoặc phi vật thể. Tuy nhiên, khi văn hóa là yếu tố thuộc về con người và con người với tư cách là chủ thể của các hoạt động pháp lí thực tiễn thì ý thức pháp luật được coi là bộ phận của văn hóa pháp lí.
Văn hóa pháp lí thể hiện sự hiểu biết pháp luật, trình độ tư duy pháp lí và mức độ hiện thực hóa các giá trị pháp lí thông qua hành vi của con người. Văn hóa pháp lí có tính độc lập tương đối với ý thức pháp luật. Văn hóa pháp lí vừa là kết quả phản ánh trạng thái ý thức pháp luật đồng thời là thước đo ý thức pháp luật đối với các loại chủ thể trên thực tế. Văn hóa pháp lý với tính đa dạng của nó về hình thức thể hiện, giá trị xã hội lại chính là môi trường tác động trực tiếp cấu trúc, nội dung của ý thức pháp luật.
V. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT.
Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng – pháp lí thiết yếu đối với quá trình quản lí xã hội bằng pháp luật. Có nhiều biện pháp để nâng cao ý thức pháp luật trong đó có giáo dục pháp luậtđược xác định là hoạt động cơ bản. Xét về mặt bản chất, giáo dục pháp luật là quá trình hoàn thiện nhân tố xã hội – pháp lí của con người, nâng cao khả năng sáng tạo của con người trước đời sống thực tiễn.
Tóm tại, giáo dục pháp luật là quá trình tác động một cách có hệ thống, mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người trình độ pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật.
Mục đích của giáo dục pháp luật được xem xét trên nhiều góc độ tùy thuộc vào đối tượng giáo dục, cấp độ giáo dục cũng như hình thức giáo dục. Nhìn chung, mục đích giáo dục có thể mang tính lâu dàu hoặc trước mắt nhưng đều hướng tới ba vấn đề cơ bản:
Một là giáo dục pháp luật nhằm nâng cao khả năng nhận thức pháp lí, sự hiểu biết pháp luật, hình thành tri thức pháp luật cần thiết cho các chủ thể (với tính cách là đối tượng nhận thức hay là đối tượng của giáo dục). Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục pháp luật bởi lẽ sự hiểu biết pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển của tư duy pháp lý, định hướng các hành vi của chủ thể trên thực tế.
Tri thức pháp luật tạo nên cơ sở khẳng định lòng tin vào các giá trị của pháp luật,các chuẩn mực pháp lí cần thiết giúp cho các chủ thể chủ động xác lập hành vi và chịu trách nhiệm về hành vi. Tri thức pháp luật không thể là sự hiểu biết đơn giản, phiến diện về một vài khía cạnh pháp luật nào đó mà nó mang tính hệ thống, logic. Do đó, giáo dục pháp luật là hoạt động có vai trò quan trọng đối với quá trình mở rộng khối lượng tri thức pháp lí, nâng cao khả năng hiểu biết pháp luật một cách toàn diện, thống nhất đối với chủ thể.
Hai là giáo dục pháp luật nhằm khơi dậy tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn, tích cực đối với pháp luật ở mỗi người cần phải giải quyết nhiều vấn đề có liên quan, trong đó giáo dục pháp luật là hoạt động cơ bản. Chúng ta biết rằng lòng tin vào pháp luật là lòng tin vào công lí, lẽ công bằng được tạo lập bởi chính pháp luật. Lòng tin chỉ có giá trị đích thực khi nó đem lại thái độ chủ động trong xử sự phù hợp với pháp luật và được hình thành trên tri thức pháp luật cần thiết (nếu không sẽ là niềm tin mù quáng, phản tác dụng). Giáo dục pháp luật không đơn thuần là chỉ để hiểu biết về các quy định của pháp luật mà cao hơn nữa là để pháp luật được “sống” trong tư duy, hành vi của mọi người, để khơi dậy tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn ở mỗi người đối với pháp luật. Cần giáo dục tình cảm công bằng, khoan dung, ý thức trách nhiệm, thái độ không khoan nhượng trước các hành vi vi phạm pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật, pháp chế.
Ba là giáo dục pháp luật nhằm hình thành thói quen xử sự theo pháp luật với động cơ tích cực. Tri thức pháp luật không thể là những nội dung lí luận thuần túy mà nó phải được hiện thực hóa thông qua các hoạt động pháp lí thực tiễn. Mục đích của giáo dục pháp luật không chỉ cung cấp những kiến thức lí luận hoặc các quy định pháp luật cụ thể mà còn quan trọng hơn là tạo lập được thói quen xử sự theo pháp luật ở mỗi loại chủ thể trong xã hội. Thói quen này được hình thành không phải là thụ động, vô thức, mà là dựa trên nền tảng của động cơ về hành vi hợp pháp, tích cực. Trên thực tế, để có thói quen xử sự hợp pháp không những đòi hỏi con người phải thu nạp lượng kiến thức pháp lý cần thiết mà còn trải qua quá trình chuyển hóa chủ quan về mặt tâm lí.
Để hoạt động giáo dục pháp luật được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả cần xác định nội dung cơ bản, phù hợp với đối tượng giáo dục, loại hình và cấp độ giáo dục. Theo nguyên lí chung thì nội dung và mục đích của giáo dục có mối quan hệ hữu cơ với nhau, vì vậy giáo dục pháp luật phải nhằm định hướng cả về tri thức, tình cảm và hành vi cho đối tượng giáo dục. Nhìn chung, nội dung của giáo dục pháp luật tương đối rộng, mang tính đặc thù riêng cho từng chương trình đào tạo. Chẳng hạn, kiến thức lí luận về pháp luật, các quy định pháp luật hiện hành, các thông tin về thực hiện, bảo vệ pháp luật, các số liệu về xã hội học pháp luật, giáo dục mô thức hành vi pháp luật v.v… Các nội dung cơ bản này lại được thể hiện phù hợp với kết cấu của mỗi chương trình giảng dạy khác nhau, theo yêu cầu cụ thể khác nhau.
Hình thức giáo dục pháp luật là cách thức mà nhà nước sử dụng để thực hiện quá trình tác động có mục đích các nội dung, yêu cầu giáo dục pháp luật vào ý thức và tâm lí của các chủ thể nhằm định hướng cho các hoạt động pháp lí đối với từng chủ thể và đối với cả xã hội. Do nội dung giáo dục, đối tượng giáo dục khác nhau nên cần đa dạng hóa các hình thức giáo dục, phương pháp giáo dục mới có hiệu quả. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật trong các nhà trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thông qua các lĩnh vực hoạt động pháp lí – xã hội thực tiễn v.v… Trên thực tế, chúng ta không nên coi trọng hoặc xem nhẹ một hình thức nào đó của hoạt động giáo dục pháp luật.
Tương tự, việc lựa chọn phương pháp giáo dục pháp luật thích hợp có tầm quan trọng đặc biệt. Rõ ràng là không thể áp dụng các phương pháp như nhau cho các loại đối tượng giáo dục, cấp độ giáo dục hoàn toàn khác nhau được. Tuy nhiên, cần nhận thấy là hoạt động giáo dục pháp luật có thể mang tính bắt buộc hoặc không bắt buộc. Vì thế tính chất của các phương pháp giáo dục cũng cần phải được nghiên cứu cho phù hợp với các đối tượng mới đem lại hiệu quả.
No comments:
Post a Comment