22/11/2014
Phân tích sự khác biệt giữa các hình thức tái cấp vốn của ngân hàng trung ương trên cơ sở pháp luật hiện hành. Chứng minh sự khác biệt thông qua hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước từ 6 tháng đầu năm 2013
Bài tập nhóm Luật Ngân hàng có đáp án.

MỞ ĐẦU

Để thực hiện chính sánh tiền tệ quốc gia Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sử dụng nhiều loại công cụ trong đó có công cụ tái cấp vốn.Hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Hiện nay, ở Việt Nam,xuất pháttừ yêu cầu khách quan của việc thực thi chính sáchtiền tệ quốc gia cũng như của hoạt động kinh doanh ngân hàng trong điều kiện nềnkinh tế thị trường, Luật Tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng nhà nước đều quy định tổ chức tín dụng được vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước theo các hình thức tái cấp vốn.


Để hiểu rõ hơn về các hình thức tài cấp vốn của ngân hàng trung ương, nhóm chúng em đã chọn đề bài cho bài tập nhóm là đề số 1: “Phân tích sự khác biệt giữa các hình thức tái cấp vốn của ngân hàng trung ương trên cơ sở pháp luật hiện hành. Chứng minh sự khác biệt thông qua hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước từ 6 tháng đầu năm 2013”.


NỘI DUNG

I. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến các hình thức tái cấp vốn của ngân hàng trung ương:

1. Khái niệm tái cấp vốn:

Theokhoản 1 Điều 11 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010quy định: 

“Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Nhà nước Ngân hàng nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng”.

Khái niệm tái cấp vốn đã có sự thay đổi so với Luật Ngân hàng Nhà nước 1997và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003. Trước đây, theo khoản 10 Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 quy định: “Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng”.

Theo Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003 thì đốitượng của hoạt động này chỉ là các ngân hàng, nhưng trong Luật Ngân hành nhà nước năm 2010 thì đối tượng này đã được mở rộng ra là tổ chức tín dụng. Điều này xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia cũng như của hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Quy định này trong Luật Ngân hàng nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý ban đầu cho việc thực hiện việc huy động vốn Ngân hàng nhà nước của các tổ chức tín dụng nói chung, chứ không phải chỉ của riêng các Ngân hàng như trước đây. 

Xét về phương diện kinh tế, giao dịch vay vốn Ngân hàng nhà nước là một trong những nghiệp vụ quản lý tài sản nợ của tổ chức tín dụng. Nghiệp vụ này không chỉ phản ánh khoản nợ mà nó phải trả cho chủ nợ -ngân hàng trung ương mà còn thể hiện vai trò trung gian của các tổ chức tín dụng giữa ngân hàng trung ương với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Còn vềphương diện pháp lý, giao dịch vay vốn ngân hàng trung ương được quan niệm là hành vi pháp lý do các tổ chức tín dụng thực hiện bằng cách ký kết các hợp đồng tái cấp vốn với ngân hàng trung ương để vay vốn ngắn hạn, thỏa mãn nhu cầu kinh doanh của mình. Những hợp đồng này sẽ có tên gọi khác nhau tùy thuộc vào hình thức tái cấp vốn do ngân hàng trung ương thực hiện đối với ngân hàng thương mại.

Như vậy, trong hoạt động tái cấp vốn này, các bên tham gia với các mục đích rất khác nhau. Nếu ngân hàng trung ương xác lập giao dịch này với các tổ chức tín dụng là để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và hoàn toàn không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận thì trái lại, các tổ chức tín dụng tham gia giao dịch này lại nhằm mục đích chính yếu là vay tiền để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh tiền tệ của mình và mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận tối đa.  

Bắt nguồn từ mục đích này nên nó dẫn đến một đặc trưng khác của hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng nhà nước đó là về thời hạn cho vay vốn của ngân hàng trung ương. Do mục đích cho vay của Ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia nên về nguyên tắc, các tổ chức này chỉ có thể vay tiền của Ngân hàng nhà nước trong thời hạn ngắn (dưới 1 năm) và khả năng vay dễ dàng hay khó khăn luôn phụ thuộc vào yêu cầu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ. Điều này thể hiện ở chỗ, khi Ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì việc vay vốn của Ngân hàng nhà nước là rất khó khăn, bởi lẽ khi đó Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng. Ngược lại, khi Ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì khả năng vay vốn của các tổ chức tín dụng từ Ngân hàng nhà nước sẽ rất dễ dàng, bởi vì khi đó Ngân hàng nhà nước sẽ giảm lãi suất tái cấp vốn để mở rộng nhu cầu tín dụng đối với các tổ chức tín dụng và thông quan đó nhằm mục đích bổ sung thêm tiền vào lưu thông.

2. Các hình thức tái cấp vốn: 

Trong luật hiện hành, ba hình thức tái cấp vốn lại là: 

- Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá; 

- Chiết khấu giấy tờ có giá; 

- Các hình thức tái cấp vốn khác.

Hình thức thứ nhấtlà cho vay có bảo đảm bằng cầm cốgiấy tờ có giá cónghĩa là “hình thức cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước) đối với các ngân hàng trên cơ sởcầm cốgiấy tờ có giá thuộc sở hữu của ngân hàng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ”, trong đó “cầm cố giấy tờ có giálà việc Ngân hàng Nhà nước nắm giữ bản gốc giấy tờ có giá, hoặc yêu cầu ngân hàng chuyển khoản giấy tờ có giá vào tài khoản của Ngân hàng Nhà nước mở tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho một hay nhiều khoản vay cầm cố của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước” (theo Thông tư số 03/2009/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước quy định về việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng). 

Đây là hình thức được các tổ chức tín dụng sử dụng phổ biến trong quan hệ vay vốn tại Ngân hàng nhà nước vì tính đơn giản, dễ hiểu và thời gian thực hiện nhanh của nó. Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là hình thức tái cấp vốn được Ngân hàng nhà nước áp dụng đầu tiên tại Việt Nam. Đến bây giờ thì Thông tư số 03/2009/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước quy định về việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng đang được áp dụng là văn bản hướng dẫn chi tiết về hình thức này. Về cơ bản, văn bản này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong việc vay tái cấp vốn của ngân hàng nhà nước, các quy định và quy trình thực hiện khá rõ ràng. 

Hình thức thứ hai là“chiết khấu, tái chiết khấu (sau đây gọi chung là chiết khấu) giấy tờ có giá của ngân hàng là nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước mua các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, mà các giấy tờ có giá này các ngân hàng đã mua trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp (theo Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng). Cho đến hiện nay, Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng và Quyết định số 12/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 29/4/2008 sửa đổi một số điều của quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng ban hành kèm quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 đang được sử dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến hình thức tái cấp vốn này. 

Hai hình thức này, vềbản chất kinh tế, thì không khác nhau – đều là hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi hình thức lại có những đặc trưng riêng của mình, là điểm khác biệt giữa các hình thức tái cấp vốn của ngân hàng trung ương.

II. Sự khác biệt giữa các hình thức tái cấp vốn của ngân hàng trung ương và chứng minh sự khác biệt thông qua hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước từ 6 tháng đầu năm 2013:

1. Sự khác biệt giữa các hình thức tái cấp vốn của ngân hàng trung ương:

Đầu tiên chúng ta phân tích sự khác biệt về các mối quan hệ tồn tại trong hai hình thức tái cấp vốn của Ngân hàng nhà nước, vì từ sự khác biệt này, nó sẽ dẫn tới hàng loạt những sự khác biệt khác như hợp đồng, phương thức thanh toán, vấn đề quyền sở hữu tài sản...Sự khác biệt này thể hiện qua các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cốgiấy tờ có giá có nghĩa là Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức tín dụng vay tiền, trên cơ sở cầm cố giấy tờ có giá thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng đó để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, trong hình thức tái cấp vốn này sẽ tồn tại hai mối quan hệ là quan hệ cho vay và quan hệ cầm cố giữa Ngân hàng nhà nước và tổ chức tín dụng. Ngược lại, với hình thức chiết khấu giấy tờ có giá lại chỉ tồn tại một quan hệ duy nhất, là quan hệ mua bán hàng hóa giữa Ngân hàng nhà nước và tổ chức tín dụng.  

Thứ hai, về bản chất hợp đồng: Với hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá thì giữa Ngân hàng nhà nước và tổ chức tín dụng sẽ có hai hợp đồng: hợp đồng vay tài sản và hợp đồng cầm cố tài sản. Trong khi, với hình thức chiết khấu giấytờ có giá thì chỉ có hợp đồng duy nhất là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Ngân hành nhà nước và tổ chức tín dụng. 

Thứ ba, về vấn đề sở hữu: Nếu đặc trưng của hình thức chiết khấu giấy tờ có giá là tổ chức tín dụng phải cam kết chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá được chiết khấu cho ngân hàng trung ương để nhận số tiền thấp hơn giá trị danh nghĩa của giấy tờ có giá đó thì đặc trưng của hình thức cho vay bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là tổ chức tín dụng chỉ cam kết đem cầm cố giấy tờ có giá cho ngân hàng trung ương (bên cho vay) như một tài sản bảo đảm cho khoản vay chứ không thỏa thuận “bán đứt” giấy tờ có giá cho ngân hàng trung ương. Vì thế nên trong hình thức cho vay cầm cố giấy tờ có giá,“sau khi ngân hàng đã hoàn trả hết nợ vay gốc và lãi, Ngân hàng Nhà nước sẽ hoàn trả các giấy tờ có giá đã sử dụng làm tài sản cầm cố tổ chức tín dụng”(khoản 4 Điều 17 Thông tư 17/2011/TT- NHNN).

Thứ tư, về trách nhiệm thanh toán: Trong hình thức cho vay cầm cố giấy tờ có giá, tổ chức tín dụng sẽ có nghĩa vụphải thanh toán còn trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá thì ngân hàng trung ương sẽ đòi tiền từ người thứ ba – là người đang bị ghi nợ theo các giấy tờ có giá mà ngân hành trung ương đang nắm giữ. Đối với hình thức cho vay cầm cố giấy tờ có giá thì theo khoản 1 Điều 18 Thông tư 17/2011/ TTNHNN: “Khi đến kỳ hạn trả nợ, các ngân hàng thanh toán gốc và lãi khoản vay cầm cố cho Ngân hàng Nhà nước và nhận lại giấy tờ có giá”. Còn trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá, dựa vào bản chất của mối quan hệ là quan hệ mua bán hàng hóa chứ không phải là cho vay cầm cố như ở trên nên hết hạn thanh toán Ngân hàng nhà nước phải đòi tiền của bên thứ ba. Trừ các trường hợp là giấy tờ có giá là hối phiếu thì ngân hàng trung ương không có quyền truy đòi tổ chức tín dụng nếu bên thứ ba không thanh toán khi đến hạn hoặc trong trường hợp chiết khấu có kỳ hạn thì khi hết thời hạn chiết khấu, các ngân hàng thanh toán tiền mua lại giấy tờ có giá cho Ngân hàng Nhà nước và nhận lại giấy tờ có giá theo cam kết (chiết khấu có kỳ hạn là Ngân hàng Nhà nước chiết khấu kèm theo yêu cầu ngân hàng cam kết mua lại toàn bộ giấy tờ có giá đó sau một thời gian nhất định. Kỳ hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày). 

Thứ năm là sự khác biệt liên quan đến các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong hai hình thức: Theo Thông tư số 17/2011/TT-NHNN thì: “Danh mục, thứ tự ưu tiên các giấy tờ có giá được sử dụng cầm cố vay vốn và tỷ lệ giữa giá trị giấy tờ có giá và số tiền vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ”; ” trong khi Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN lại quy định rõ hơn: “Các giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ giá khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ”.

Thứ sáuvề các hình thức cụ thể và thời hạn của hai hình thức này:

- Đối với cho vay cầm cố tài sản thì chỉ có một hình thức duy nhất là Ngân hàng nhà nước cho tổ chức tín dụng vay trên cơ sở tổ chức tín dụng đem giấy tờ có giá ra để cầm cố, bảo đảm cho khoản vay này. Trong hình thức này thì thời hạn cho vay cầm cố tối đa là 1 năm. Cụ thể là Điều 11 nghị định 17/2011: Thời hạn cho vay cầm cố:

“1. Thời hạn cho vay cầm cố là dưới 12 tháng và không vượt quá thời hạn còn lại của giấy tờ có giá được cầm cố. Thời hạn cho vay cầm cố bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ. Trường hợp ngày trả nợ trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn cho vay được kéo dài đến ngày làm việc tiếp theo.

2. Căn cứ mục đích vay vốn của tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước quyết định thời hạn cho vay, kỳ hạn thu nợ trong từng trường hợp cụ thể.

3. Trường hợp đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét gia hạn khoản vay cầm cố trên cơ sở đề nghị của tổ chức tín dụng và lý do gia hạn phù hợp với định hướng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước”.

Khi có nhu cầu đề nghị gia hạn khoản vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng gửi 01 văn bản đề nghị gia hạn khoản vay cầm cố (trong đó giải trình rõ lý do đề nghị gia hạn) trực tiếp hoặc qua đường bưu điện tới Ngân hàng Nhà nước. Trong thời hạn tối đa 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị gia hạn khoản vay cầm cố, Ngân hàng Nhà nước có thông báo bằng văn bản cho tổ chức tín dụng đề nghị gia hạn về việc chấp thuận hoặc không chấp thuận gia hạn khoản vay cầm cố và gửi cho các đơn vị liên quan.

- Trong khi đó, đối với hình thức chiết khấu giấy tờ có giá thì có hai hình thức khác nhau. Thứ nhất là “ chiết khấu toàn bộ thời hạn của giấy tờ có giá: Ngân hàng Nhà nước mua hẳn giấy tờ có giá của ngân hàng theo giá chiết khấu”và thứ hai là“chiết khấu có kỳ hạn: Ngân hàng Nhà nước chiết khấu kèm theo yêu cầu ngân hàng cam kết mua lại toàn bộ giấy tờ có giá đó sau một thờigian nhất định. Kỳ hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày”. Đối với chiết khấu toàn bộ thì thời hạn của hình thức này được tính chính là thời hạn còn lại được ghi trên giấytờ có giá, còn với chiết khấu có kỳ hạn thì kì hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày.

2. Chứng minh sự khác biệt thông qua hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước từ 6 tháng đầu năm 2013:

Với tiến trình ngày càng hội nhập sâu và rộng với kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đã và đang chịu tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh bắt đầu xuất hiện từ cuối năm 2011. Trong bối cảnh đó, ngay từ đầu năm 2012 Chính phủ đã kịp thời ban hành một loạt các giải pháp nhằm hạn chế sự suy thoái kinh tế tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012. Theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã quyết liệt thực hiện hàng loạt các giải pháp nhằm thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ và Chỉ thị 01/CT-NHNN của Thống đốc NHNN ngày 31/1/2013 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2013. Theo đó, trong 6 tháng đầu năm 2013, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Cụ thể:

Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 1073/QĐ-NHNN ngày 10/5/2013 giảm lãi suất tái cấp vốn từ 8%/năm xuống 7%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 6%/năm xuống 5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng từ 9%/năm xuống 8%/năm.Trong khi đó, tại thông tư số 10/2013/TT-NHNN ngày 10/5/2013, Ngân hàng Nhà nước quyết định giảm lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các nhu cầu vốn phục vụ nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao giảm từ 11%/năm xuống 10%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của Quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô đối với các nhu cầu vốn này giảm từ 12%/năm xuống 11%/năm. Theo Ngân hàng Nhà nước, trong 4 tháng đầu năm 2013, chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã góp phần kiềm chế lạm phát ở mức thấp; thanh khoản của hệ thống ngân hàng cải thiện, thị trường tiền tệ ổn định, lãi suất huy động và cho vay của hệ thống tổ chức tín dụng tiếp tục giảm, lãi suất thị trường liên ngân hàng ổn định ở mức thấp, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất - kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, do sức mua của thị trường vẫn ở mức thấp, khả năng hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp còn hạn chế. Do đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản điều chỉnh giảm lãi suất có hiệu lực kể từ ngày 13/5/2013.

Như vậy, NHNN điều hành giảm các mức lãi suất chính sách thông qua đó tác động giảm lãi suất cho vay của TCTD đến với khách hàng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn. Tính chung 6 tháng đầu năm, NHNN điều chỉnh giảm 2%/năm các mức lãi suất điều hành, theo đó lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng giảm từ 10-9-8%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9-8-7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7-6-5%/năm; điều chỉnh giảm 4%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao từ 12-11-10-9%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi USD xuống mức 1,25%/năm; giảm trần lãi suất tiền gửi bằng VND áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng từ 8-7,5-7%/năm; (riêng Quỹ Tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô giảm từ 8,5-8%-7,5/năm). Đặc biệt, NHNN đã tiến thêm một bước trong việc tự do hóa lãi suất, theo đó từ 28/6/2013, NHNN cho phép các TCTD được ấn định mức lãi suất huy động từ 6 tháng trở lên trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục tăng cường giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định của NHNN về lãi suất huy động và cho vay của các TCTD, kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm nhằm thiết lập kỷ cương trên thị trường; kêu gọi các TCTD xem xét điều chỉnh giảm lãi suất các khoản cho vay về mức 13%/năm. 

Thứ hai, một loạt các giải pháp về hoạt động tín dụng được đồng loạt triển khai trong hệ thống NHTM. Các giải pháp tín dụng được điều hành một cách linh hoạt theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của TCTD và phải phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Các chính sách tín dụng cũng đồng thời góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Căn cứ trên định hướng tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống trong năm 2013 là khoảng 12%, NHNN đã thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm cho các nhóm TCTD theo năng lực tài chính, khả năng quản lý rủi ro và yêu cầu các TCTD kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đề ra; đồng thời linh hoạt điều chỉnh tăng cho một số TCTD đã có mức tăng trưởng tín dụng cao. 

Để đạt được mục tiêu về tín dụng như trên, NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong 6 tháng đầu năm. Theo đó, các giải pháp về tín dụng và lãi suất từ năm 2012 tiếp tục được thực hiện trong năm nay, ví dụ như thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng theo Quyết định số 780/QĐ-NHNN, tiếp tục cho vay ngoại tệ ngắn hạn phục vụ xuất khẩu, cho vay để nhập khẩu xăng dầu...NHNN tổ chức các đoàn công tác làm việc với các tỉnh, thành phố, phối hợp tổ chức Hội nghị kết nối ngân hàng và doanh nghiệp để triển khai các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và xử lý các vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng nhằm mở rộng tín dụng có hiệu quả. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, chính quyền địa phương để tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư tại Tây Bắc và Tây Nguyên. Thông qua các hội nghị này các doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc với những người làm chính sách nhằm đề xuất những khó khăn vướng mắc trong việc tiếp cận vốn, trao đổi trực tiếp với các NHTM để mở rộng cơ hội tiếp cận vốn. NHNN cũng đã phối hợp với Bộ Xây dựng ban hành Thông tư số 11/2013/TT-NHNN ngày 15/5/2013 quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở hướng tới hỗ trợ đối tượng có thu nhập thấp có cơ hội vay vốn mua nhà.

Thứ ba, tỷ giá được điều hành ổn định, phù hợp với cung cầu ngoại tệ. NHNN đã chủ động giữ nguyên tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng trong hầu hết 6 tháng đầu năm. Tuy nhiên, từ ngày 28/6/2013, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá này tăng thêm 1% và đây là lần điều chỉnh đầu tiên kể từ cuối năm 2011 nhằm giúp tỷ giá phản ánh tốt hơn cung cầu trên thị trường ngoại tệ. Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục triển khai Nghị định 24 về hoạt động kinh doanh vàng, theo đó công tác đấu thầu vàng được thực hiện từ tháng 3/2013 nhằm tăng nguồn cung cho thị trường vàng giúp các TCTD tất toán tài khoản vàng vào ngày 30/6/2013. Kết quả cho thấy thị trường vàng đã tương đối ổn định, không còn sự biến động mỗi khi giá vàng thay đổi góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. NHNN cũng đã xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối; đồng thời tiếp tục kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại tệ, thị trường vàng nhằm kiên quyết tiếp tục khắc phục tình trạng đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế.

Thứ tư, tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD nhằm đảm bảo an toàn từng ngân hàng và cả hệ thống. NHNN từng bước thực hiện các biện pháp cơ cấu lại các tổ chức tín dụng như đánh giá, phân tích tình hình tài chính, hoạt động và mức độ lành mạnh của các tổ chức tín dụng để phát hiện các TCTD yếu kém thông qua thanh tra tại chỗ, hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng gặp khó khăn và giám sát toàn diện, thanh tra, kiểm toán, áp dụng biện pháp hạn chế hoạt động của một số tổ chức tín dụng yếu kém; thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) nhằm giải quyết các khoản nợ xấu trong hệ thống NHTM.

Thứ năm, NHNN cũng đã chủ động thông tin, tuyên truyền kịp thời về các chủ trương và giải pháp điều hành của Ngân hàng nhà nước để định hướng và tạo sự đồng thuận của công chúng đối với hoạt động của ngành Ngân hàng. Các cuộc họp báo thường xuyên được tổ chức để đưa thông tin đầy đủ, kịp thời về việc ban hành các cơ chế chính sách mới, các chủ trương định hướng điều hành của NHNN. Việc này cũng góp phần cho người dân cũng như doanh nghiệp hiểu hơn về định hướng điều hành của NHNN và góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách.

Cho đến nay, kinh tế nước ta đã đạt được những thành công trong việc ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế trong các tháng đầu năm đã có những tín hiệu tích cực chuyển dịch đúng hướng mặc dù vẫn còn nhiều trở ngại. Nhập khẩu đã tăng trở lại cho thấy các doanh nghiệp đang chuẩn bị nguyên liệu cho sản xuất; hàng tồn kho tăng chậm lại; thu hút đầu tư nước ngoài có xu hướng gia tăng cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào triển vọng kinh tế Việt Nam là lạc quan. Tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2013 đạt 4,9%. Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 2,4%, đây là mức tăng của 6 tháng thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Cán cân thanh toán tiếp tục thặng dư đã tạo điều kiện cho NHNN mua ngoại tệ gia tăng dự trữ ngoại hối. Tăng trưởng tín dụng ước đạt khoảng 4,0% trong nửa đầu năm, mức tăng này khả quan hơn nhiều so với xu hướng giảm của cùng kỳ năm 2012 cho thấy dòng vốn tín dụng đã bước đầu được khai thông. Cơ cấu tín dụng đang dịch chuyển theo hướng tập trung cho sản xuất kinh doanh. Lãi suất huy động được điều chỉnh ở mức hợp lý khiến huy động vốn tiếp tục tăng ở mức cao. Thanh khoản của hệ thống các TCTD cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán của toàn hệ thống. Thị trường ngoại hối vẫn tương đối ổn định, tỷ giá tuy có chiều hướng tăng nhẹ nhưng vẫn trong phạm vi quy định của NHNN góp phần nâng cao lòng tin vào đồng Việt Nam, giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Các TCTD đang từng bước tiến hành tái cấu trúc, kiện toàn hoạt động bằng việc giảm tỷ lệ nợ xấu, gia tăng trích lập dự phòng rủi ro, trích lập thêm được 68 ngàn tỷ đồng và xử lý được 7,5 ngàn tỷ nợ xấu bằng nguồn này trong 4 tháng đầu năm. Số nợ xấu toàn hệ thống tính đến tháng 5/2013 là ở mức 4,65%. Hiện nay NHNN đang hoàn tất các thủ tục để sớm đưa Công ty Quản lý tài sản của các tổ TCTD Việt Nam đi vào hoạt động vào trung tuần tháng 7/2013.

Để đạt được mục tiêu đề ra từ đầu năm, toàn ngành ngân hàng cần phải tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp tại các Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ và Chỉ thị 01 của NHNN. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 12% trong năm 2013, toàn hệ thống tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu. NHNN tăng cường công tác phối hợp với các bộ ngành đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tiêu thụ sản phẩm và hàng tồn kho để có các giải pháp về tín dụng và lãi suất phù hợp kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; triển khai kịp thời gói hỗ trợ cho vay nhà ở; cùng với việc tiếp tục duy trì ổn định tỷ giá ngoại tệ theo hướng biến động không quá 2-3% trong năm 2013. Việc đưa Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam đi vào hoạt động từ tháng 7/2013 sẽ góp phần tích cực vào việc xử lý nợ xấu ngân hàng, khơi thông dòng vốn tín dụng cho nền kinh tế.

KẾT LUẬN


Tái cấp vốn là một vấn đề phức tạp, luôn luôn được các nhà quản lý kinh tế tài chính quan tâm. Việc sử dụng nó với tư cách là một công cụ quản lý tài chính – tiền tệ chỉ đạt được hiệu quả cao khi biết kết hợp chặt chẽ với các công cụ quản lý khác. Với việc quy định các hình thức tái cấp vốn khác nhau với những đặc điểm khác biệt; song điều đó cho thấy tính chất quy định để bảo đảm khi có sự thay đổi trên thị trường thì ngân hàng vẫn có thể có biện pháp và hình thức linh hoạt để ứng phó. Từ đó có thể khẳng định tái cấp vốn cũng chính là một trong những công cụ để NHNN điều tiết khối lượng tiền tệ và là công cụ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 

No comments:

Post a Comment