MỞ ĐẦU
Có thể nói, trên thực tế, nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội đặc biệt vốn đã xuất hiện từ rất lâu ở nước ta và đây cũng là một vấn đề mang tính nhân đạo sâu sắc. Hiện nay, vấn đề Nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng đang có xu hướng ngày càng gia tăng và có những diễn biến hết sức đa dạng và phức tạp. Chính vì vậy với bài tập lần này, em xin đi sâu tìm hiểu đề tài: “ Đánh giá về tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.” Sau đây là toàn bộ bài làm của em.
NỘI DUNG
I. Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt nam hiện nay.
1. Tình hình ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật trong nước.
Có thể khẳng định rằng, pháp luật điều chỉnh về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nc ngoài ở Việt Nam ngày càng trở nên hoàn thiện. Nếu như trc đây nuôi con nuôi đc quy định tản mạn trong các văn bản pháp luật và điều ước quốc tế khác nhau thì nay vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nc ngoài trong pháp luật việt nam đã được quy định thống nhất trong Luật nuôi con nuôi năm 2010. Việc điều chỉnh thống nhất trong một văn bản pháp luật đã khắc phục được tình trạng thiếu tập trung, không đồng bộ của các văn bản pháp luật. Việc ban hành Luật nuôi con nuôi năm 2010 nhằm đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, Tạo hành lang pháp lý đồng bộ và thống nhất trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung và vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Thứ hai, Góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân về công tác bảo vệ trẻ em, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, không có gia đình có thể tìm thấy gia đình thay thế.
Thứ ba, Thể hiện sự tôn trọng và quan tâm thực hiện các cam kết quốc tế mà nước ta đã đưa ra trong việc bảo vệ và giành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em, đảm bảo việc nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Thứ tư, tạo ra cơ chế đồng bộ và thống nhất trong việc nuôi con nuôi trong đó giải pháp nuôi con nuôi quốc tế được xem như là giải pháp cuối cùng, sau khi đã cân nhắc và áp dụng mọi biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng thay thế ở trong nước cho thấy không có hiệu quả or không thể áp dụng được.
Thứ năm, tạo cơ sở pháp lý nhằm thúc đẩy, khuyến khích và thu hút sự quan tâm của toàn xã hội đối với lĩnh vực này, đồng thời tranh thủ các nguồn hỗ trợ nhân đạo từ trong và ngoài nước phục vụ cho công tác chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho trẻ em tại cộng đồng.
2. Tình hình kí kết và thực hiện các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Có thể thấy, Việt nam đã kí các Hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì vấn đề nuôi con nuôi luôn được các nước quan tâm và ghi nhận trong các Hiệp định. Để góp phần tạo ra một chế định pháp lý pháp lý kí kết thông thoáng, lành mạnh, nhà nước ta đã kí kết các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với một số nước như:Pháp, Đan Mạch, ý, Thụy sĩ, tây ban nha….Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi ở việt nam trong những năm qua đã mang lại hiệu quả cao trong thực tế quan hệ nuôi cn nuôi có yếu tố nước ngoài. Thông qua các Hiệp định àm việt nam kí kết với các nước có thể thấy rõ cả phía người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi đều đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đảm bảo tuân thủ pháp luật của cả hai nước: nước có trẻ em làm con nuôi và nước người nhận con nuôi thường trú. Do cơ chế kiểm soát chặt chẽ của việt nam và các nước đã tham gia kí kết hiệp định, việc giải quyết việc nuôi con nuôi đã đảm bảo tính nhân đạo và lành mạnh.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi nêu trên, thì cơ chế xử lý đối với các khoản tài chính trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài vẫn đang còn gặp những khó khăn, trở ngại đối với các đương sự và cơ quan giải quyết việc nuôi con nuôi. Điều đó dẫn đến tình trạng khó kiểm soát và ngăn chặn được hiện tượng môi giới, kiếm lời..
3. Một số hạn chế, bất cập còn tồn tại trong lĩnh vực nuôi con nuôi có ytnn.
Nhìn chung các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở việt nam thời gian qua đã góp phần quan trọng điều chỉnh các quan hệ nuôi con nuôi tại việt nam với mục đích tìm cho trẻ em không nơi nương tựa một mái ấm gia đình thay thế, tôn trọng nguyên tắc ưu tiên cho nhận con nuôi trong nước, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chỉ là giải pháp cuối cùng. Tuy nhiên, Xét về mặt thực tế, khi chúng ta cùng nhìn nhận lại về vấn đề này cũng như đánh giá về tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở việt nam hiện nay, thì có thể thấy về lĩnh vực này ở việt nam vẫn còn tồn tại những hạn chế, vướng mắc nhất định ảnh hưởng không tốt đến vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Cụ thể là:
3.1 Nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Nuôi con nuôi quốc tế là vấn đề nhạy cảm và hệ trọng. Vấn đề này liên quan đến số phận của những trẻ em có hoàn cảnh thiệt thòi phải sống xa quê hương, đất nước nơi mình sinh ra. Tuy nhiên hiện nay một số cơ quan nhà nước kể cả ở trung ương và địa phương còn có sự nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi quốc tế nói riêng, thậm chí còn mơ hồ về tính nhân đạo, nhân văn của lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế cũng như về các vấn đề pháp lý có liên quan. Một hành vi thiếu tính nhân đạo hoặc truc lợi sẽ gây hậu quả khôn lường không những đối với trẻ em, người nhận con nuôi, mà còn ảnh hưởng đến quan hệ giữa nước cho và nước nhận con nuôi.
3.2 Làm sai lệch nuồn gốc trẻ em.
Thực tiễn tình hình nuôi con nuôi ở Việt nam cho thấy một số địa phương đã làm sai lệch nguồn gốc trẻ em để cho làm con nuôi đã làm ảnh hưởng đến tính trung thực, minh bạch trong hồ sơ, giấy tờ và có thể dẫn đến sự vi phạm quyền trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh. Một số địa phương khác thời gian gần đây đã cho thấy tính phức tạp trong việc kiểm soát các giấy tờ liên quan đến nguồn gốc đích thực của trẻ em mà nguyên nhân là do sự buông lỏng quản lý ở các cơ sở nuôi dưỡng, chạy theo lợi ích vật chất kinh tế trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, thậm chí có sự câu kết giữa cơ sở nuôi dưỡng và những người môi giới bất hợp pháp bên ngoài để đưa trẻ em từ các nơi khác về cơ sở nuôi dưỡng và hợp thức hóa bằng hồ sơ trẻ e bị bỏ rơi để cho làm con nuôi nước ngoài.
3.3 Chưa quản lý chặt chẽ các hoạt động của văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt nam.
Có thể thấy, kể từ năm 2009 trở về trước, trên phạm vi cả nước đã có 69 văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động trong đó có 42 văn phòng của Hoa kì. Việc số đông các tổ chức con nuôi vào việt nam hoạt động đã tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho tình hình giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trở nên phức tạp va khó kiểm soát hơn.
Văn phòng con nuôi của các nước hoạt động tại Việt Nam một mặt phải tuân theo pháp luật việt nam, mặt khác phải tuân theo pháp luật của nước nhận. Nhiều nước có các quy định rất khác nhau về hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là quy định về tài chính. Nhiều tổ chức lại có khả năng tài chính mạnh, cơ chế xử lý mềm dẻo liên quan đên việc nuôi con nuôi quốc tế. Trong nhiều trường hợp họ dùng tiền mặt để hỗ trợ cơ sở nuôi dưỡng. Trong khi đó các quy định của pháp luật nước ta về hỗ trợ nhân đạo, quản lý việc tiếp nhận, sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo còn chưa cụ thể và rõ ràng, kỉ luật tài chính nhìn chung quy định còn chưa chặt chẽ. Đây chính là những sơ hở, thiếu sót về mặt pháp lý nên chưa đảm bảo được sự minh bạch, công khai và sử dụng đúng mục đích của các khoản hỗ trợ nhân đạo.
III. GIẢI PHÁP
1. Tăng cường công tác quản lý văn phòng con nuôi nn tại vn
Để khắc phục tình trạng chưa có cơ chế chặt chẽ quản lý văn phòng con nuôi tại Việt Nam thì cần phải có giải pháp cụ thể như thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động của văn phòng con nuôi nước ngoài, quy hoạch cụ thể số lượng, tổ chức con nuôi nước ngoài của mỗi nước được thành lập tại Việt nam, số lượng văn phòng con nuôi nước ngoài được phép hoạt động…qua đó để mỗi văn phòng con nuôi nước ngoài tại việt nam hoạt động có hiệu quả hơn, đảm bảo được lợi ích tối đa nhất cho trẻ em được nhận làm con nuôi.
2. Tăng cường vai trò của cơ quan con nuôi trung ương:
Có thể nói việc tăng cường hơn nữa vai trò của cơ quan con nuôi trung ương là việc làm hết sức cần thiết, một mặt nhằm đáp ứng yêu cầu khi tham gia công ước Lahay mặt khác nhằm tập trung quản lý thống nhất lĩnh vực nuôi con nuôi vào một mối. Cơ quan con nuôi trung ương cần được củng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng để có thể đảm nhận được trọng trách nặng nề hơn trong điều kiện nước ta tham gia công ước lahay. Trong cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi, coq quan con nuôi trung ương phải là đầu mối trong việc tìm mái ấm gia đình cho trẻ em, chịu trách nhiệm về hồ sơ của cha mẹ nuôi, bảo đảm trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi theo quy định của pháp luật và có sự tự nguyện đồng ý của những người có quyền cho con nuôi.
Bên cạnh đó, cơ quan con nuôi trung ương còn có trách nhiệm trực tiếp phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác tiến hành mọi biện pháp thích hợp khác nhằm ngăn chặn việc thu lợi bất chính liên quan đến nuôi con nuôi hoặc ngăn chặn mọi hành vi khác trái với mục đích của công ước. Đây là nhiệm vụ không đơn giản của việt nam trong giai đoạn hiện any khi mà các hoạt động trung gian, môi giới bất hợp pháp..trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài diễn ra ngày càng tinh vi và nghiêm trọng hơn.
Tuy nhiên trên thực tế thì cơ quan trung ương về con nuôi của nước ta – Cục con nuôi lại có thẩm quyền hạn chế. Cục con nuôi chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi và tham gia một số khâu trong quá trình giải quyết hồ sơ mà chưa được trao thẩm quyền quyết định việc nuôi con nuôi.
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, nuôi con nuôi là vấn đề mang tính nhân đạo sâu sắc. Tuy nhiên do việc chưa nhận thức đúng về vấn đề này nên trên thực tế đã xảy ra những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của trẻ em. Và một trong những nguyên nhân gây ra vấn đề này là do sự thiếu hiểu biết pháp luật về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói chung. Chính vì vậy, đặc biệt trong tình hình hiện nay thì cần tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân hiểu một cách đầy đủ và cơ bản về vấn đề này để thực hiện tốt các quy định của pháp luật, cũng như có thể tham gia vào việc giám sát quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
No comments:
Post a Comment