18/10/2014
Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này - Bài tập học kì Luật Tố tụng Dân sự
Nguyên tắc của luật tố tụng dân sự là tư tưởng pháp lý chỉ đạo cho nên việc tuân thủ đúng trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự có ý nghĩa rất quan trọng. Nội dung các nguyên tắc này thể hiện về năm vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự như tính pháp chế xã hội chủ nghĩa của hoạt động tố tụng dân sự; nguyên tắc tổ chức và hoạt động xét xử các vụ việc dân sự của tòa án; bảo đảm quyền tham gia tố tụng của các đương sự; trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dân sự đối với việc giải quyết vụ việc dân sự; vai trò, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức khác đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của tòa án. Một trong những nguyên tắc quan trọng, thể hiện trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dân sự đó là nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.

Bài viết dưới đây xin trình bày đề tài: “Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này.” Trong quá trình thực hiện bài viết, với lượng kiến thức có hạn và số lượng tài liệu tham khảo hạn chế khiến bài viết không tránh khỏi những sai sót, mong thầy cô xem xét và chỉ bảo. Em xin cảm ơn.

Nội dung

1. Căn cứ pháp lý của nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
Những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng giúp tòa án làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự có trách nhiệm thực thi công lý, nếu họ không vô tư trong việc tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng thì việc giải quyết vụ việc dân sự sẽ bị thiên lệch. Do vậy, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được pháp luật quy định là một nguyên tắc của luật tố tụng dân sự.

Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng Dân sự thành một chế định riêng biệt tại Chương II. Có thể thấy, so với quy định của pháp luật tố tụng trước đó, chế định các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự rõ ràng hơn, đầy đủ hơn và phù hợp hơn. Kế thừa các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động trước đây, Bộ luật Tố tụng Dân sự xây dựng mới một số nguyên tắc thể hiện rõ hơn tính dân chủ và pháp chế trong tố tụng dân sự như nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự…, đồng thời sửa đổi, bổ sung để làm rõ hơn nội dung một số nguyên tắc cơ bản quy định trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành như nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự, nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự… Tổng cộng, Bộ luật Tố tụng Dân sự ghi nhận 22 nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam (từ Điều 3 đến Điều 24). Điều dễ nhận thấy là trong số 22 nguyên tắc cơ bản này, có những nguyên tắc không chỉ được ghi nhận trong pháp luật tố tụng dân sự mà còn được thể hiện trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như: nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tố tụng, nguyên tắc Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, nguyên tắc Toà án xét xử tập thể, công khai, nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án, nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng…

Các vấn đề liên quan đến nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng mà Nhà nước ta đã ban hành như bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự ban hành kèm theo Thông tư số 96/NCPL ngày 8/2/1977 của Tòa án nhân dân tối cao,  Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Điều 18 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 … Tuy nhiên, các quy định này còn chưa có tính hệ thống. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại Điều 16 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự.
“Điều 16. Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự

Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định, thành viên Hội đồng định giá không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”

Nội dung của điều luật này đã thể hiện được một phần nội dung cơ bản của nguyên tắc như quy định được những biện pháp bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.

2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tungm người tham gia tố tụng có nội dung chủ yếu được xác định là phải tiến hành những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự vô tư trong việc tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; trường hợp có căn cứ cho thấy họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ thì phải thay đổi. Nghĩa là, những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải giữ được sự vô tư khi làm nhiệm vụ của mình trong mọi trường hợp. Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thật sự công tâm, khách quan, vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối vào công việc, không được có thái độ thiên vị hay định kiến đối với bất kì người tham gia tố tụng nào. Nếu có lí do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình, họ sẽ không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, bản thân họ sẽ phải từ chối tiến hành tham gia hoặc tiến hành tố tụng hoặc bị đề nghị thay đổi.

Theo quy định tại Điều 16 Bộ luật tố tụng dân sự thì những người tiến hành và tham gia tố tụng dân sự gồm có: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định, thành viên Hội đồng định giá. Những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự vụ tư trong việc tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng của những người này được biểu hiện cụ thể thông qua những quyền và nghĩa vụ của họ được quy định rõ trong Bộ luật tố tụng dân sự. Chẳng hạn như quyền và nghĩa vụ của Chánh án tòa án được quy định cụ thể tại các Điều 40, 125, 172, 257, 285, 382, 401 và một số điều luật khắc; quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán được quy định tại Điều 41, 85, 100, 173, 184,…; quyền và nghĩa vụ của người giám định được quy định tại Điều 68, 230 Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 12, 14 Pháp lệnh giám định tư pháp; ….

Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng giúp tòa án làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình tố tụng. Các hoạt động của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mục đích là để giúp tòa án giải quyết các vụ việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm công bằng xã hội, vì thế trong quá trình tham gia tố tụng họ phải vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Sự vô tư của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn là điều rất quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, mỗi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng có những nhiệm vụ, quyền hạn riêng nên căn cứ thay đổi những người này khi thấy họ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ được pháp luật quy định có những điểm không giống nhau. Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự, đã tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án dó. Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ theo quy định tại mục II và III, Nghị Quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất những quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự 2004; hoặc theo các trường hợp quy định tại khoản 1 và 2 Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự; ngoài ra có thể có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ trong các trường hợp như trong quan hệ thông gia, quan hệ tình cảm, quan hệ kinh tế… chứng minh được rằng quan hệ cuộc sống đó khiến người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không còn vô tư trong việc thực hiện quyền hạn và nghĩa vụ pháp lý của mình thì phải thay đổi.

Việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là điều kienj cần thiết để thực hiện một số các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng dân sự như các nguyên tắc thể hiện tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự; các nguyên tắc về tổ chức hoạt động xét xử của tòa án… Có thể nói nguyên tắc này là đòi hỏi pháp lí chi phọi mọi hoạt động của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.

3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

Về mặt khách quan, là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự nên nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng bao hàm những ý nghĩa cơ bản rất quan trọng của các nguyên tắc cơ bẩn của luật tố tụng dân sự như:

- Thứ nhất, cùng với đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh quan hệ tố tụng, các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự được coi là dấu hiệu “bổ sung” thể hiện tính độc lập của ngành luật tố tụng dân sự với những ngành luật khác; 

- Thứ hai, các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự là cơ sở cho hoạt động sáng tạo, giải thích, hướng dẫn áp dụng quy phạm pháp luật tố tụng dân sự; 

- Thứ ba, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự, người ta có thể phân biệt, đối chiếu, so sánh thủ tục tố tụng dân sự của các hệ thống pháp luật khác nhau (chẳng hạn, nhìn vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự, không khó lắm cũng có thể chỉ ra rằng, mô hình tố tụng dân sự nước ta là hệ tố tụng xét hỏi kết hợp với yếu tố tranh tụng); 

- Thứ tư, việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự có thể là căn cứ để huỷ bỏ phán quyết của Toà án, của Trọng tài. 

Về mặt chủ quan, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là một trong những nguyên tắc thể hiện trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Người tiến hành tố tụng là chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc thuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, để sự thật của vụ việc được xác định khách quan, chính xác đòi hỏi những người này phải thật sự vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Đối với người tham gia tố tụng là chủ thể tham gia tố tụng nhằm góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án, pháp luật cũng đòi hỏi sự vô tư của họ khi tham gia vào tố tụng dân sự. Do đó, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng một khi được pháp luật nhà nước công nhận và thể chế nó thành một điều luật đã tạo nên khung pháp lý bắt buộc đối với hai dạng chủ thể này, bắt buộc họ phải tôn trọng và thực thi nguyên tắc một cách triệt để. Theo đó, nguyên tắc đã góp phần thúc đẩy tính khách quan, chân thực, công bằng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự của tố tụng dân sự; đồng thời xây dựng và đào tạo được một đội ngũ cán bộ tư pháp, các công chức nhà nước tham gia tố tụng cũng như thay mặt cơ quan nhà nước tiến hành tố tụng liêm minh, công tâm.

4. Việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

Một số điều kiện thực hiện nguyên tắc:
- Xây dựng và ban hành những quy định pháp luật để điều chỉnh nguyên tắc này, những quy định pháp luật này phải đầy đủ, rõ ràng, thống nhất làm cơ sở cho việc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật không những thể hiện được những tư tưởng pháp lý cơ bản của nguyên tắc, đồng thời còn làm cơ sở để nguyên tắc phát huy ý nghĩa quan trọng, tính tích cực của nó, từ đó thể hiện được sự công bằng, minh bạch và phát triển của pháp luật nhà nước.

- Những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải nhận thức rõ được vai trò, trách nhiệm của mình, phải tự động, tự giác từ chối tiến hành hoặc tham gia tố tụng nếu thuộc những trường hợp luật định. Điều kiện này vừa tác động thúc đẩy đội ngũ cán bộ tư pháp, cán bộ nhà nước tham gia hoạt động tư pháp hoàn thiện tư cách cá nhân, đạo đức nghề nghiệp, vừa là biểu hiện cụ thể nhất, rõ ràng nhất tính đúng đắn của nguyên tắc.

Kết luận

Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng dân sự. Việc hiểu và nắm rõ nguyên tắc này và việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tố tụng dân sự, góp phần giảm bớt những hậu quả vi phạm không cần thiết trong thủ tục tố tụng.

No comments:

Post a Comment