17/10/2014
Hệ thống tiền tệ quốc tế - Bài tập học kì Luật Quan hệ kinh tế quốc tế
Các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế đòi hỏi phải có một hệ thống tiền tệ và tài chính quốc tế phù hợp, bảo đảm cho việc thanh toán, chuyển tiền được nhanh chóng, chính xác và an toàn. Hệ thống kinh tế quốc tế có tác động rất mạnh đến quan hệ kinh tế đối ngoại của từng quốc gia nói riêng cũng như đến nền kinh tế thế giới nói chung. Trong quá trình phát triển của mình, hệ thống tiền tệ đã nhiều lần thay đổi để dần đi đến một giải pháp thật hoàn hảo.


Việc nghiên cứu hệ thống tiền tệ quốc tế giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào môi trường tài chính quốc tế - một điều kiện không thể thiếu để thực hiện và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.


Nội dung

I. Khái niệm về hệ thống tiền tệ quốc tế

Hệ thống tiền tệ quốc tế là tập hợp các quy tắc, thể lệ, định chế điều chỉnh các quan hệ tài chính – tiền tệ giữa các quốc gia, nhằm bảo đảm thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế, bảo đảm sự ổn định và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung.( )

Hệ thống tiền tệ quốc tế hình thành trên cơ sở mối quan hệ thương mại – tài chính giữa các quốc gia, là chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ được thể hiện bằng những thỏa ước và những quy định giữa các quốc gia nhằm bảo đảm thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế, với nội dung quy định đơn vị tiền tệ chung được sử dụng trong thanh toán giữa các quốc gia và xác định tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia.

Tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate) là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng tiền tệ của một quốc gia khác. Nói cách khác tỷ giá hối đoái chính là tỷ lệ so sánh giữa hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau.(2)

Tiêu chuẩn để đánh giá một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả là độ tin cậy về cả lý thuyết lẫn thực tế của hệ thống, tính ổn định của hệ thống tiền tệ khi vận hành, khả năng bảo đảm cho đồng tiền của các hệ thông tiền tệ riêng của các quốc gia và khu vực chuyển đổi dẽ dàng với nhau mà không gây nên những tác động xấu.( ) Thứ nhất, hệ thống tiền tệ phải có khả năng hạn chế tối đa thời gian và những hậu quả có thể xảy ra khi tiến hành điều chỉnh cán cân thanh toán của mình, điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia. Thứ hai, hệ thống đó phải có khả năng duy trì ổn định mức tỷ giá hối đoái, nguồn dự trữ ngoại tệ. Thứ ba, hệ thống tiền tệ phải có khả năng cũng cấp nguồn dự trữ ngoại tệ thích hợp nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái mà không gây tác động tiêu cự tới nền kinh tế của quốc gia đó nói riêng cũng như nền kinh tế của khu vực nói chung.

II.  Các hệ thống tiền tệ quốc tế

Hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành từ cuối thế kỉ XIX và cho đến nay đã phát triển qua bốn giai đoạn với bốn chế độ khác nhau.

1.Hệ thống thứ nhất – Hệ thống bản vị vàng (1875 – 1914)

Trước năm 1875, hệ thống tiền tệ quốc tế hoạt động theo chế độ lưỡng kim bản vị. Với hệ thống này, cả vàng và bạc đều được coi là cơ sở để xác định tỉ giá hối đoái trong thanh toán và chuyển tiền, được đúc thành tiền với những qui định về hàm lượng kim loại, nhãn mác... nhằm thực hiện chức năng là phương tiện vận chuyển và lưu thông trong nền kinh tế. Hệ thống này gặp khá nhiều rắc rối do bản thân giá vàng và bạc cũng bị biến động mạnh trong từng thời kì, hơn nữa sự thừa nhận rộng rãi cả vàng và bạc làm tiền thanh toán quốc tế ở các quốc gia cũng rất khác nhau. Từ cuối năm 1860, nhiều mỏ bạc được phát hiện và khai thác mạnh khiến bạc bị mất giá so với vàng, nhiều quốc gia không còn sử dụng bạc làm bản vị cho đồng tiền quốc gia nữa, chế độ lưỡng kim bản vị dần sụp đổ. Từ năm 1875, sau khi hầu hết các cường quốc chấp nhận chết độ bản vị vàng, hệ thống bản vị vàng ra đời thay thế cho hệ thống lưỡng kim bản vị.

Hệ thống bản vị vàng ra đời năm 1875 và hoạt động đến năm 1914 thì sụp đổ. Hệ thống này có những đặc điểm cơ bản sau:

- Vàng được coi là tiền tệ thế giới, được di chuyển tự do giữa các nước và được dùng làm phương tiện thanh toán quốc tế cuối cùng. Dưới chế độ bản vị vàng, việc xuất và nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do hoạt động. Do vàng được chu chuyển tự do trên giữa các quốc gia với nhau nên tỷ giá trao đổi thực tế trên thị trường tự do không biến động đáng kể so với bản vị vàng.

- Các quốc gia đều thực hiện chế độ bản vị vàng trong chết độ tiền tệ của mình, có nghĩa là tiến có khẳ năng chuyển đổi thành vàng không hạn chế, do vậy các quốc gia đều phải dự trữ số vàng đủ mức để bảo đảm thanh toán, chuyển đổi khi có nhu cầu. Dưới chế độ bản vị vàng, Ngân hành trung ương luôn phải duy trì ổn định một lượng vàng dự trữ trong mối quan hệ với số lượng phát hành.

- Tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền các quốc gia được xây dựng căn cứ vào tỷ lệ cố định giữa bản vị vàng của các đồng tiền. Các quốc gia ấn định giá trị đồng tiền với vàng, hoặc hiểu là chĩnh phủ ấn định giá vàng bằng tiền quốc gia, đồng thời sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng theo mức giá quốc gia đó ấn định. Tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền của các quốc gia được xác định thông qua vàng. Ví dụ: đồng Bảng Anh được ấn định bằng vàng theo tỷ lệ 6 Bảng bằng 1 ounce, trong khi đó đồng Franc Pháp có giá 30 Franc bằng 1 ounce. Như vậy, tỷ giá hối đoái giữa đồng bảng Anh và đồng Franc Pháp sẽ là 1 Bảng bằng 5 Franc.( )

Hệ thống bản vị vàng là một hệ thống đơn giản, phù hợp với nhận thức và thực tiễn thanh toán và quan hệ kinh tế quốc tế lúc đó. Nó đã thực hiện được chức năng của mình, góp phần ổn định và thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế quốc tế thời kì ấy. Thứ nhất, với hàng rào thương mại vàng hoàn toàn được gỡ bỏ và kiểm soát ngoại hối cùng chu chuyển vỗn ít được áp dụng cộng với việc không có một sự phá gia hay nâng giá nào giữa các đồng tiền của các cường quốc trên thế giới đã đảm bảo ổn định một nguồn dự trữ ngoại tệ, từ đó thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế phát triển vượt bậc. Trong chế độ bản vị vàng, các nhà đầu tư gần như được đảm bảo chắc chắn trước những rủi ro về tỷ giá, luồng vốn chu chuyển tự do nhằm tìm kiếm nguồn lợi nhuận cao nhất, góp phần khuyến khích phân công lao động quốc tế, gia tăng phúc lợi lao động. Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán được vận hành một cách hiệu quả, những điểm bất cân đối trong cán cân thanh toán của quốc gia sẽ tự động điều chỉnh về mức cân bằng. Hệ thống bản vị vàng cũng ít tạo ra mâu thuẫn giữa các quốc gia. Tuy nhiên, hệ thống này cũng có một số hạn chế nhất định. Nếu cán cân thanh toán của quốc gia bị thâm hụt hoặc thường xuyên thay đổi do phải dựa vào lãi suất, mức giá cả, thu nhập nên dễ dẫn đến tình trạng thất ngiệp, lạm phát hoặc đình đốn. Ngoài ra, hệ thống này không có những nguyên tắc thực sự bắt buộc các quốc gia phải tuân theo và vai trò của Ngân hàng trung ương cũng không được rõ nét (do lượng vàng được chu chuyển tự do và lượng tiền dựa vào lượng vàng hiện có).

Sang đầu thế kỉ XX, khi quan hệ mậu dịch và đầu tư tăng mạnh, các quốc gia đều có xu hướng bội chi ngân sách bằng cách in thêm tiền (lạm phát), số lượng vàng dự trữ trên thực tế không đủ đáp ứng như cầu thanh toán, hệ thống bản vị vàng đã tỏ ra không còn thích hợp và coi như bị sụp đổ khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra.

2. Hệ thống thứ 2 – Hệ thống bản vị vàng – hối đoái – Hệ thống Giơ Noa (1922 – 1939)

Từ đầu thập niên 20 của thế kỉ XX, các nước bắt đầu khôi phục kinh tế sau chiến tranh, với xu hướng khôi phục lại chết độ bản vị vàng. Về hình thức, các cường quốc đều lần lượt khôi phục bản vị vàng, nhưng trên thực tế hệ thống bản vị vàng quốc tế hoạt động rất kém hiệu quả, do các nước không tuân thủ các điều kiện về dự trữ vàng, bảo đảm chuyển đổi và di chuyển vàng tự do.

Có thể coi hệ thống bản vị vàng hạn chế ( bản vị vàng hối đoái) được ra đời từ một hội nghị quốc tế họp tại Genois (Iralia) năm 1922. Hệ thống này có những đặc điểm cơ bản sau:

- Áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi và bản vị vàng có giới hạn. Theo chế độ này, chỉ có một số đồng tiền chủ chốt trong thanh toán quốc tế phải giữ bản vị vàng, còn các đồng tiền khác khi thanh toán sẽ được chuyển đổi theo một trong số các đồng tiền chủ chốt.

- Đồng USD và Bảng Anh có vai trò chính trong thanh toán và hai đồng tiền này trở thành phương tiện dự trữ chính thức (cùng với vàng) của quốc gia.

Như vậy, hệ thống Genois là một hệ thống trung gian giữa hệ thống bản vị vàng và hệ thống hối đoái thả nổi. Nó đã có tác dụng nhất định trong việc khắc phục sự suy thoái kinh tế do lạm phát ở nhiều nước sau chiến tranh thế giới thứ nhất, củng cố một phần nhỏ nền kinh tế các quốc gia giữa hai cuộc đại chiến. Sang đầu thập kỉ 30 của thế kỉ XX, do tác động của đâị khủng hoảng kinh tế, các quốc gia có đồng tiền chủ chốt đều gặp khó khăn về dự trữ vàng và lần lượt hủy bỏ chế độ bản vị vàng. Năm 1925, nước Anh ấn định bản vị vàng như trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất trong khi mức lạm phát khi này cao hơn nhiều sơ với lúc trước chiến tranh, điều này khiến cho nền kinh tế Anh rơi vào tình trạng thiểu phát, thất nghiệp tăng cao (tỉ lệ thất nghiệp của nước Anh tăng từ 3% của năm 1920 đến 18% năm 1926), các cuộc bãi công diễn ra khắp nơi, nước Anh rơi vào khủng hoảng. Đến năm 1929, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ, cuối cùng, ngày 21/9/1931, nước Anh buộc phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và bản vị vàng. 
Hệ thống Giơ noa sụp đổ.( )

3. Hệ thống thứ ba – Hệ thống Bretton – Woods (1945 – 1973)

Nhằm khôi phục lại nền kinh tế thế giới sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, cải tổ hệ thống tiền tệ tránh những sai lầm trước đây, tạo ra một trật tự tiền tệ quốc tế mới để tránh sự tan ra các mối quan hệ tiền tệ quốc tế, hệ thống này được ra đời sau Hội nghị quốc tế họp tại Bretton – Woods (tại Mĩ) năm 1944. Cũng tại hội nghị này, cùng với sự ra đời của hệ thông Bretton – Woods là hai tổ chức tài chính quốc tế: Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF) và Ngân hàng thế giới (World Bank – WB).

Hệ thống này có những đặc điểm cơ bản sau:

- Áp dụng chế độ tỷ giá cố định trong ngắn hạn, còn về mặt dài hạn cho phép điều chỉnh theo quan hệ cung – cầu.

- Đồng USD được lấy làm chuẩn, có chế độ đảm bảo bằng vàng (Hoa Kì có trách nhiệm đổi không hạn chế USD ra vàng và ngược lại cho Ngân hàng Trung ương của các nước tham gia hệ thống theo giá 35 USD = 1 ounce vàng( )). Các quốc gia khác gắn đồng tiền của mình với USD theo tỷ giá cố định trong ngắn hạn và có điều chỉnh trong dài hạn. Có thể hiểu rằng hệ thống Bretton – Woods qui định các quốc gia ấn định tỷ giá trung tâm của đồng nội tệ với USD, đồng thời các quốc gia cũng phải đồng ý không hạn chế việc đổi đồng nội tệ ra USD và ngược lại tại mức tỷ giá đã ấn định.

- Thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) với các chức năng điều tiết tỷ giá giữa các nước, giám sát việc tuân thủ các quy định về tài chính quốc tế, cấp tín dụng cho các nước thành viên khi gặp khó khăn tài chính. Khi gặp các bất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thanh toán quốc tế, các quốc gia có thể thay đổi tỷ giá trung tâm nhưng đặt dưới sự quản lí của IMF, khả năng thay đổi tỷ giá trung tâm là biện pháp cuối cùng giúp cân bằng cán cân thanh toán và đây được coi là một đặc điểm cơ bản của hệ thống này.

- Lập quỹ dự trữ quốc tế do IMF quản lí, do các nước thành viên đóng góp bằng vàng, ngoại tệ mạnh và nội tệ, tất cả được qui đổi thành đơn vị chung SDR (Quyền rút vốn đặc biệt). Các quốc gia thành viên sẽ đóng góp vào quỹ của IMF với tỉ lệ là ¼ là bằng vàng và ¾ là bằng bản tệ để hình thành nên quý tiễn tệ của IMF. Căn cứ vào tỷ trọng góp vốn của các quốc gia, IMF cung cấp cho mỗi quốc gia một hạn mức tín dụng. Khi một quốc gia thành viên gặp vấn đề thâm hụt cán cân thanh toán họ sẽ được rút lần đầu là 25% hạn mức tín dụng đó, sau đó, quốc gia nào chấp nhận những chính sách kinh tế do IMF đưa ra sẽ được rút vốn 4 lần tiếp theo, mỗi lần là 25% hạn mức tín dụng( ). Giá trị của SDR được tính bằng số bình quân của giá trị 16 đồng tiền của những nước có lượng hàng hóa xuất khẩu vượt mức 1% kim ngạch thương mại quốc tế. Đến năm 1981, giá trị SDR đã được đơn giản hóa, chỉ tính theo giá trị của 5 đồng tiền chủ chốt là USD, Franc Pháp, Bảng Anh, Mac Đức, Yên Nhật.

Có thể thấy hệ quả cơ bản của hệ thống này là đồng USD trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế và quyền lực tập trung trong tay nước Mĩ – quốc gia duy nhất có quyền phát hành đồng USD. Đồng thời cũng thấy Mĩ là quốc gia duy nhất sử dụng hệ thống bản vị vàng trong khi các nước khác theo chế độ bán vị hối đoái vàng dựa theo USB hay chế độ bán vị USD.

Hệ thống Bretton – Woods (hay còn gội hệ thống bản vị USD) là một bước tiến bộ trong quan hệ tài chính quốc tế và đã hoạt động khá tốt trong gần 30 năm. Tuy nhiên, đến đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX, nợ thanh toán của Hoa Kì tăng cao, dự trữ vàng của Hoa Kì và IMF không thể đảm bảo nổi chế độ bản vị vàng cho đồng USD. Tổng thống Hoa Kì Nic-xơn đã tuyên bố chấm dứt chế độ tự do đổi USD ra vàng, do đó hệ thống Bretton – Woods sụp đổ vào năm 1973, các đồng tiền đều thả nổi tỷ giá và không còn tiền ra vàng nữa. Dù vậy, cho đến hiện nay, đồng USD vẫn đóng một vai trò không thể thiếu trong quỹ tiền tệ dự trữ của IMF dù nó đang phải đối mặt với những thách thức do sự ra đời của đồng EURO tạo ra nhằm giữ vững vị trí độc tôn.

4. Hệ thống thứ tu – Hệ thống Gia-mai-ca (từ 1976)

Từ khi hệ thống Bretton – Woods chính thức sụp đổ năm 1973, các quốc gia chủ yếu theo chế độ tỷ giá thả nổi, tuy nhiên, chế độ này chưa có được sự thừa nhận quốc tế chính thức. Hệ thống Gia-mai-ca chính thức ra đời từ Hội nghị quốc tế của IMF tại Gia-mai-ca (tháng 1/1976). Các thành viên ÌM đã nhất trí thông qua các quy định mới cho hệ thống tiền tệ quốc tế với các nội dung cơ bản sau:

- Bãi bỏ hoàn toàn chế độ bản vị vàng của các nước, do vậy vai trò dự trữ của vàng không còn được coi trọng, đặc biệt là ở IMF. Một nửa số vàng dự trữ ở IMF được trả lại cho các nước thành viên, nửa còn lại được bán lấy tiền giúp đỡ các nước nghèo. Các quốc gia thành viên không được cố định giá trị đồng tiền của mình với vàng. Vàng được giao dich như một hàng hóa bình thường trên thị trường.

- Áp dụng chế độ tỷ giá tahr nổi có quản lí của Chính phủ các nước, dưới sự giám sát và hỗ trợ của IMF. Có nghĩa các quốc gia có quyền tự lựa chọn chế độ tỷ giá mà mình cho là phù hợp nhưng đặt dưới sự giám sát và hỗ trợ của IMF. Tuy nhiên IMF không được trao quyền trừng phạt những quốc gia vi phạm.

- Cho phép các nước được liên kết để thành lập hệ thống tiền tệ khu vực, nhằm thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế.

- Đơn vị thanh toán chính thức giữa IMF và các nước thành viên là SDR. Tuy nhiên, trong thanh toán và giao dịch quốc tế giữa các nước, đồng USD vẫn giữ vai trò chủ chốt. Giá trị đồng SDR được xác định 5 năm một lần dựa trên giá trị tiền tệ của nhóm 5 nước.

Hệ thống Gia-mai-ca chính thức đánh dấu sự kết thúc của hệ thống Bretton – Woods, hoạt động được hơn 30 năm, nhiều lần cải tiến và có tác dụng khá tốt. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, các quốc gia vẫn giữ dự trữ bằng vàng, USD hoặc SDR, ngoài ra một số đồng tiền như EURO, Yên Nhật, Bảng Anh trở thành những ngoại tệ mạnh trên thế giới. Do mỗi quốc gia có quyền tự chọn một chế độ tỷ giá thích hợp nhằm đạt được lợi ích cao nhất mà mỗi một chế độ tỷ giá lại có những ưu, nhược điểm khác nhau nên không tránh khỏi những mất cân bằng cán cân thanh toán do sự thay đổi của tỷ giá.

Kết luận

Cho đến nay, hệ thống tiền tệ quốc tế đã phát triển đến mức cho phép các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế thực hiện rất dễ dàng, an toàn và nhanh chóng trong thanh toán. Việc hiểu kĩ hơn về hệ thống tiền tệ quốc tế giúp ta nắm vững được phần nào các nguyên tắc, thiết chế cũng như cách sử dụng luồng tài chính quốc tế hiện nay như thế nào.

No comments:

Post a Comment