Bài tập học kỳ Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam có đáp án.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong pháp luật phong kiến nói chung và bộ quốc triều hình luật nói riêng, hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo bao trùm toàn bộ nội dung của bộ luật. Các bộ luật phong kiến không có chương điều riêng quy định các khái niệm, nguyên tắc pháp lý nhưng nội dung của bộ quốc triều hình luật thể hiện một số nguyên tắc hình sự chủ yếu như nguyên tắc vô luật bất hình; nguyên tắc chiếu cố; nguyên tắc chuộc tội bằng tiền; nguyên tắc về chịu trách nhiệm hình sự; miễn, giảm trách hình sự; nguyên tắc thưởng người tố giác và trừng phạt kẻ che giấu tội phạm; nguyên tắc thân thuộc được giấu tội cho nhau. Trong khuôn khổ bài viết này tôi xin chọn đề tài: “Đánh giá nguyên tắc chuộc tội bằng tiền trong bộ Quốc triều hình luật”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Sơ lược một số nguyên tắc hình sự chủ yếu trong bộ quốc triều hình luật:
1. Nguyên tắc vô luật bất thành hình (điều 642, 683, 685, 708, 722): trong đó quy định chỉ khép tội khi trong bộ luật có quy định, không thêm bớt tội danh, áp dụng đúng hình phạt đã quy định và nó là tương tự như trong các bộ luật hình sự hiện đại.
2. Nguyên tắc chiếu cố (điều 1, 3,4,5, 8, 10, 16, 17, 680): trong đó quy định các chiếu cố đối với địa vị xã hội, tuổi tác (trẻ em và người già cả), tàn tật, phụ nữ v.v.
3.Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền (điều 6, 16, 21, 22, 24): đối với các tội danh như trượng, biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích chữ. Tuy nhiên các tội thập ác (mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh roi (có tính chất răn đe, giáo dục) không cho chuộc.
4. Nguyên tắc trách nhiệm hình sự (điều 16, 35, 38, 411, 412): trong đó đề cập tới quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và việc chịu trách nhiệm hình sự thay cho người khác.
5. Nguyên tắc miễn, giảm trách nhiệm hình sự (điều 18, 19, 450, 499, 553): trong đó quy định về miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp như tự vệ chính đáng, tình trạng khẩn cấp, tình trạng bất khả kháng, thi hành mệnh lệnh, tự thú (trừ thập ác, giết người).
6. Nguyên tắc thưởng người tố giác, trừng phạt người che giấu (điều 25, 39, 411, 504).
II. Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền.
Loại người và loại tội được chuộc tội bằng tiền được quy định trong bộ quốc triều hình luật:
Có 3 trường hợp phạm tội được chuộc tiền:
1.1. Các quan có trách nhiệm cai quản viên chức hay quân dân mà phạm tội do sơ lỡ, sai lầm, thì từ tội “lưu” trở xuống cho được chuộc tội bằng tiền (tức là trừ khi phạm vào tội thập ác, bởi thập ác là những trọng tội)(điều 14).
1.2. Người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và người tàn tật mà phạm tội lưu trở xuống thì cho chuộc tội bằng tiền.(điều 16).
1.3. Người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người tàn tật nặng (như điên cuồng, rồ rại, cụt cả tay chân, mù cả hai mắt) mà phạm tội phản nghịch, giết người, đáng xử tử thì phải tâu thỉnh lên vua để vua quyết có cho chuộc hay không. Những người ấy phạm tội ăn trộm hay đánh người bị thương thì cũng cho chuộc.(điều 16).
Ngoài ra trong điều 6 có quy định những người thân thuộc về nghị thân mà phạm tội thì họ tôn thất, họ hoàng thái hậu đều được miễn, những tội đánh roi, đánh trượng, thích chữ vào mặt họ hoàng hậu thì được chuộc tội bằng tiền.
Mức tiền chuộc được quy định trong bộ quốc triều hình luật:
Giới quan viên khi phạm từ tội lưu trở xuống cũng được chuộc tội bằng tiền. Mức độ tiền chuộc được xác định tùy thuộc vào phẩm trật của người phạm tội, vì nhà làm luật quan niệm người có quan tước phải chịu trách nhiệm cao hơn dân thường, chức tước càng cao tiền chuộc càng lớn. Chẳng hạn, để tránh bị thích chữ vào mặt hoặc cổ, các quan có thể chuộc tiền mỗi chữ như sau: tam phẩm chuộc hai quan, tứ phẩm một quan năm tiền, ngũ phẩm một quan, lục phẩm bảy tiền, thất phẩm sáu tiền...(điều 24). Điều 21, tiền chuộc bị xử đánh trượng – mỗi trượng quan tam phẩm thì phải chuộc 5 tiề, tứ phẩm 4 tiền, ngũ phẩm, lục phẩm 3 tiền, thất phẩm, bát phẩm 2 tiền, cửu phẩm, thứ dân 1 tiền. Điều 22, tiền chuộc tội biếm mỗi hạng, quan nhất phẩm phải chuộc 100 quan, nhị phẩm 75 quan, tam phẩm 50 quan, tứ phẩm 30 quan, ngũ phẩm 25 quan, lục thất phẩm 20 quan, bát cửu phẩm 15 quan, dân đinh,nô tỳ 10 quan. Còn các quan được tập ấm mà chưa có tước phẩm gì thì cũng được ấm lệ mà giảm 1 bậc. Những kẻ hiện bị tội bắt làm khao đinh tang thất phụ mà trước đã đồ, làm nô tỳ phạt tiền 30 quan, tiền chuộc cũng thế. Bị tội bắt làm tượng phường binh chuộc 60 quan, chủng điền binh 100 quan, bị đày đi châu gần 130 quan, châu ngoài 200 quan, châu xa 230 quan, tử tội 330 quan(đàn bà phạm tội thì tiền chuộc cũng vậy).
Đánh giá nguyên tắc chuộc tội bằng tiền trong bộ quốc triều hình luật:
1.Chuộc tội bằng tiền là một trong những nguyên tắc hình sự chủ yếu được thể hiện trong bộ quốc triều hình luật. Chuộc tội không chỉ nhằm làm giàu công khố mà còn tạo điều kiện cho những người giàu không phải chấp hành hình phạt khi phạm vào những tội nhất định. Mặt khác nguyên tắc này khá công bằng đối với từng giai cấp tầng lớp trong xã hội thông qua các điều trong bộ luật, ví dụ như: mức tiền chuộc của quan cao hơn dân thường, quan có phẩm tước càng cao thì tiền chuộc càng nhiều, phụ nữ có mức tiền chuộc tội như những người cùng tội khác. Nguyên tắc cụ thể, chi tiết với từng loại người, loại tội được chuộc tội bằng tiền và mức tiền chuộc được quy định trong bộ quốc triều hình luật.
2. Nguyên tắc thể hiện tính nhân đạo sâu sắc.Chủ nghĩa nhân đạo của Khổng Tử - nhân học, mà hạt nhân là chữ hiếu - là quan hệ huyết thống tự nhiên của con người, quan hệ huyết thống tự nhiên này là cơ sở cho chủ nghĩa nhân đạo của Khổng Tử, đã có ảnh hưởng mạnh mẽ vào Việt Nam. Nó có tính hợp lý khi Khổng Tử đã kết hợp nhân ái (đạo đức), huyết thống (quan hệ tự nhiên) và chế độ đẳng cấp (chính trị) lại với nhau; và nhân ái là chất keo để gắn chặt mối quan hệ ngang dọc của xã hội . "Nhân" là phạm trù trung tâm của toàn bộ học thuyết Khổng giáo. Khổng Tử nói nhiều đến chữ “Nhân” và coi “Nhân” là cao ngất, là rộng đến sâu thẳm của đạo đức con người. Tư tưởng nhân đạo thể hiện trong Quốc Triều Hình Luật trước tiên ở các quy định phản ánh chính sách hình sự khoan hồng đối với người phạm tội là người già, người tàn tật và trẻ em cũng như đối với người phạm tội tuy chưa bị phát giác đã tự thú. Tuy nhiên, khi phạm tội thập ác, họ không được hưởng nguyên tắc chiếu cố này. Thập ác là mười trọng tội rất nguy hiểm, bao gồm các tội xâm phạm việc bảo vệ vương quyền (mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn, đại bất kính), các tội xâm phạm việc bảo vệ quan hệ hôn nhân gia đình phong kiến (ác nghịch, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn), tội xâm phạm nghiêm trọng đạo đức, dã man tàn ác (bất đạo). Pháp luật phong kiến cũng rất “ưu ái” đối với tội phạm nữ. Giới nữ không phải chịu hình phạt trượng, tức đánh bằng gậy. Khi nữ phạm nhân bị tội xuy (đánh roi), tội tử mà có thai thì việc thi hành án được hoãn lại. Sau khi sinh con được đủ 100 ngày, họ mới bị đem ra đánh hoặc hành hình. Tính nhân đạo này của bộ luật đã được pháp luật ngày nay kế thừa vả phát huy. Pháp luật hình sự hiện hành không quy định việc chuộc tội bằng tiền. Tuy nhiên, người phạm tội dùng tiền để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả chính là một tình tiết góp phần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Điều 93 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cho phép bị can, bị cáo được đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để thay thế cho biện pháp tạm giam. Tùy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị nhằm đảm bảo có mặt theo giấy triệu tập. Số tiền hoặc tài sản này sẽ được hoàn trả nếu họ chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan. Quy định này thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với người phạm tội. Người phạm tội là phụ nữ có thai, người già, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải... thì đều được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi có hai tình tiết giảm nhẹ, họ được nhận hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định, thậm chí được chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
3. Có thể nói chuộc tội bằng tiền là một nguyên tắc độc đáo, đã được thể hiện qua các bộ luật trên thế giới. Theo bộ luật Xa Lích, bất cứ tội phạm nào cũng được phép dùng tiền để chuộc tội (trừ những tội phạm bị xem là trọng tội: tội phản quốc, tội chống lại giáo hội…) Lúc đầu, mức tiền nộp phạt tùy thuộc vào sự thoả thuận của hai bên. Về sau, bộ luật quy định mức phạt cụ thể (ví dụ: trộm chó: 15 xôlidút, trộm ngựa: 45 xôlidút, xúc phạm người frăng tự do: 30 xôlidút, giết chết người frăng tự do: 200 xôlidút, giết chết phụ nữ mang thai: 600 đến 700 xôlidút). ½ số tiền nộp phạt được chia cho gia đình bị hại, ½ còn lại sung vào công quỹ. Luật cho phép họ hàng của tội phạm được nộp tiền thay và tội phạm sẽ trở thành nô lệ cho người đã nộp phạt thay mình. Nhưng đến thế kỷ 6, luật cấm người khác nộp phạt thay, tội phạm phải tự mình bỏ tiền ra để chuộc tội và mức tiền nộp phạt tùy thuộc vào địa vị của người bị hại. Nếu tội phạm là kẻ giết người mà không chịu nộp phạt hoặc không có tiền nộp phạt thì sẽ bị tử hình. Đối với những tội phản quốc, không trung thành với nhà vua hoặc lãnh chúa phong kiến, chống lại nhà thờ và luật lệ tôn giáo, trộm cắp tài sản của nhà nước hay của nhà thờ… đều bị coi là trọng tội. Tất cả những trọng tội đều không được dùng tiền chuộc mà phải chịu án tử hình. Phương thức thực hiện án tử hình rất tàn bạo như: chém đầu, treo cổ, hoả thiêu, làm cho tội phạm chết dần trong đau đớn… Tuy nhiên luật lại không quy định như thế nào là phản quốc, như thế nào là không trung thành với nhà vua… do đó, đối với những loại tội phạm này, quan toà thường xét xử tùy tiện, chủ quan.
C. KẾT LUẬT:
Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền là nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong quốc triều hình luật cũng như hoàng việt luật lệ. Nguyên tắc này tạo nên sự cân bằng của chế tài ngũ hình áp dụng chung cho mọi sự vi phạm. Chuộc tội bằng tiền phần nào giảm nhẹ sự hà khắc của hình phạt đối với tội nhân.Đây là nguyên tắc mang đậm tư tưởng nhân đạo. Tư tưởng này đã tồn tại từ pháp luật xưa và nối tiếp cho đến ngày nay. Pháp luật xây dựng trên cơ sở nghiêm trị kết hợp với khoan hồng luôn là chìa khóa thành công trong cải tạo con người. Qua điều này ta có thể nhận thấy rằngbộ quốc triều hình luật đã khẳng định được giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vượt trước thời đại bấy giờ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, NXB Công An nhân dân.
2.Quốc triều hình luật của Viện sử học Việt Nam. NXB Pháp lý Hà Nội 1991
3.phapluattp.vn
4.tailieu.vn
5.http://www.wattpad.com/466764-luat-hong-duc-gia-long?p=2.
No comments:
Post a Comment