04/05/2014
Bài tập nhóm 2 Hình sự 1 - Tội trộm cắp tài sản - 8 điểm
TÌNH HUỐNG


Khoảng 18 giờ ngày 25/11/2008, C(19 tuổi) đi xe máy của gia dình chở H (17 tuổi) đi chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Đến một quán bán đồ điện, C mua 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 30cm và 01 chiếc cà lê dài khoảng 17cm đưa cho H để phá khoá xe máy. C chở H đi lòng vòng một hồi thì thấy có hai chiếc xe máy dựng trước cửa nhà anh D. C dừng xe đợi ở ngoài, H vào dùng tuốc nơ vít phá khoá chiếc xe máy Jupiter. Thấy có người lại gần, C sợ bị phát hiện bắt giữ nên phóng xe đi trước. Sau khi lấy được xe, H tháo gương, thay bằng biển số giả rồi đem chiếc xe đến gửi tại phòng trọ của T. Lúc đó T không biết chiếc xe là do H đã trộm cắp được. Ngày 27/11/2008, sau khi biết chiếc xe do H trộm cắp của người khác, T đã đem chiếc xe trên nộp cho Công an. Chiếc xe trị giá 19.000.000 đồng.


Câu hỏi:

1. Theo phân loại tội phạm tại điều 8 BLHS, hãy xác định tội trộm cắp tài sản thuộc loại tội gì?
2. C và H có bị coi là đồng phạm tội trộm cắp tài sản không?
3. C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?
4. Giả sử khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì T có bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức không?

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

1. Theo phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS, hãy xác định tội trộm cắp tài sản thuộc loại tội phạm gì?

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu phạt. Các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi cả dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội và cả dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí.

Khoản 2 Điều 8 BLHS quy định: căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự, tội phạm được chia thành 4 loại bao gồm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự  cụ thể hoá từng loại tội phạm như sau: 

“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. 

Có thể thấy, về nội dung, căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 8 là tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, còn về hình thức, căn cứ để phân loại tội phạm là lượng hình phạt được áp dụng đối với từng loại tội phạm cụ thể. Như vậy, để phân loại tội đối với tội trộm cắp tài sản thì cần nhận biết được mức độ, tính chất nguy hại cũng như  lượng hình phạt đối với tội phạm này.

Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS, gồm 5 Khoản thì đến 4 Khoản 1, 2, 3, 4 quy định về các loại tội phạm, cụ thể là:

• Tại khoản 1 Điều 138 BLHS, ta có thể thấy hành vi trộm cắp tài sản quy định tại khoản này có tính nguy hại không lớn cho xã hội (giá trị tài sản từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm), lượng hình phạt được áp dụng là “phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” . Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ở khoản này là 3 năm tù. 
Đối chiếu với khoản 3 Điều 8 thì tội trộm cắp tài sản được quy định ở khoản 1 Điều 138 thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng.

• Tại khoản 2 Điều 138 BLHS, ta có thể thấy hành vi trộm cắp tài sản ở đây có tính gây nguy hại lớn cho xã hội (thực hiện tội phạm có tổ chức; có tính chuyên nghiệp; tái phạm nguy hiểm; dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát; tài sản chiếm đoạt có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng), lượng hình phạt được áp dụng là“phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản quy định ở khoản này là 7 năm tù. 
Đối chiếu với khoản 3 Điều 8 thì tội trộm cắp tài sản được quy định ở khoản 2 thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.

• Tại khoản 3 Điều 138 BLHS, chiếu theo kkhoản 3 Điều 8, ta có thể thấy hành vi trộm cắp tài sản ở đây thuộc loại tội rất nghiêm trọng, bởi lẽ, căn cứ vào mức độ, tính chất nguy hiểm thì tội phạm được quy định ở khoản này gây nguy hại rất lớn cho xã hội (tài sản chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng). Chính vì tính nguy hại rất lớn cho xã hội đó mà lượng hình phạt được áp dụng là “phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là 15 năm tù. 

• Tại khoản 4 Điều 138 BLHS, hành vi trộm cắp tài sản ở đây có tính gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội (tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng) và lượng hình phạt được áp dụng là “phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là tù chung thân. 

Đối chiếu với khoản 3 Điều 8 thì tội trộm cắp tài sản ở khoản 4 thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

2. C và H có bị coi là đồng phạm tội trộm cắp tài sản không?

Trả lời: 

Trong trường hợp này, H và C được coi là đồng phạm tội trộm cắp tài sản. Trong đó H đóng vai trò là người thực hành còn C là người giúp sức.

Giải thích:

Điều 20 BLHS1999 quy định: “ Đồng phạm là trường hợp hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Như vậy, để xem xét C và H có là đồng phạm không thì phải xem trường hợp của C và H có thỏa mãn về dấu hiệu của mặt khách quan và mặt chủ quan của đồng phạm không?

 Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi phải có hai dấu hiệu:

-  Có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể tội phạm.

Trong tình huống này:

 Thứ nhất, chủ thể thực hiện tội phạm trộm cắp tài sản của người khác gồm có hai người là C và H - thỏa mãn điều kiện về số lượng người phạm tội.
 Thứ hai, C và H đều có đủ điều kiện để trở thành chủ thể của tội phạm. Theo luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm là những người đã đạt tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS 1999) và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 BLHS1999). Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 12 BLHS: “người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm” thì độ tuổi của C (19 tuổi) và H (17 tuổi) là độ tuổi phải chịu TNHS. Hơn nữa, trong tình huống trên, không đề cập đến việc C và H thuộc trường hợp mất năng lực TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS. Nên ta coi C và H có đầy đủ năng lực TNHS. Do đó, C và H chính là là chủ thể của tội phạm trộm cắp.

- Những người này phải cùng thực hiện một tội phạm, tức là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi sau: hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm, hành vi giúp sức người khác thực hiện tội pham.

Trong tình huống trên: C là người giúp sức để H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Theo khoản 2 Điều 20 “người giúp sức là người tạo những điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho việc thực hiện tội phạm”. Như vậy, C đã tạo những điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm, biển hiệu là C mua 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 30cm và 01 cà lê dài khoảng 17cm (mua công cụ) đưa cho H để phá H phá khóa xe máy. Và C chở H đi lòng vòng thăm dò địa điểm tìm xe máy để trộm cắp và đã tìm thấy chiếc xe dựng ở của nhà anh D. Không những vậy, C còn tạo ra điều kiện tinh thần là việc C dừng xe đợi ở ngoài giúp H yên tâm thực hiện hành vi đột nhập và trộm xe. Những hành vi này của C nếu xét riêng rẽ thì chỉ là việc làm bình thường không phải hành vi phạm tội (không được mô tả trong CTTP) nhưng trong vụ việc này chính hành vi trên của C có mối quan hệ nhân quả với việc anh D bị mất chiếc xe máy vì khi thực hiện hành vi này C hướng tới mục đích là lấy cắp chiếc xe máy nên đã có hành vi giúp H. Theo khoản 2 Điều 20: “người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm”. Trong tình huống trên, H là người thực hành. H đã trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản biểu hiện qua hành vi H đã dùng tuốc nơ vít phá khóa chiếc xe Jupiter. Sau khi lấy được xe, H tháo gương, thay biển số giả và đi gửi xe ở chỗ khác. Có thể thấy, việc chuẩn bị công cụ, phương tiện và chở lòng vòng đi thăm dò địa điểm của C là điều kiện cần thiết cho hành vi phạm tội của H là phá khóa lấy cắp xe, tức hành vi của cả hai người và hậu quả nguy hiểm cho xã hội có mối quan hệ nhân quả với nhau.

 Về mặt chủ quan:  đòi hỏi những người thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi phạm tội, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Lỗi cố ý được biểu hiện trên hai mặt lí trí và ý chí như sau:

- Về lí trí: Mỗi người đều biết hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình.  Nếu chỉ biết mình có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không biết hành vi của người khác cũng gây nguy hiểm cho xã hội thì đây chưa phải là đồng phạm mà là phạm tội riêng lẻ. Trong tình huống trên, việc trộm cắp tài sản đã được C và H đã bàn bạc với nhau trong lúc đi chơi. C biết ý định của H và H cũng biết ý định của C. Hai người đều biết ý định của nhau. Mặt khác, C và H là hai người bình thường, không thuộc trường hợp người không có năng lực TNHS được quy định tại Điều 13 BLHS, cho nên C và H đều biết hành vi của nhau là hành vi phạm tội và gây nguy hiểm cho xã hội và thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung mà họ tham gia thực hiện.

- Về ý chí: người đồng phạm mong muốn hoặc có ý thức để mặc hậu quả xảy ra. Ở đây, C và H rủ nhau đi trộm cắp tài sản nên cả hai đều hướng tới mục đích chung và cùng mong muốn chiếm đoạt được tài sản là chiếc xe Jupiter của anh D.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định, H và C là đồng phạm tội trộm cắp tài sản. 
3. C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?

Trả lời: 

Trong trường hợp này, không thể coi hành vi của C là tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội.

Giải thích:

Theo đề bài ta thấy, trước hết C đã tham gia vào tội trộm cắp tài sản được quy định tại điều 138 cuả BLHS. Như vậy, C đã thực hiện hành vi phạm tội và có thể phải chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật. Tuy nhiên, trong khi gây án, C đã bỏ về trước, nên ta cần tìm hiểu xem hành vi của C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?

Điều 19 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”.

Theo điều luật này quy định, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là sự tự kiềm chế của một người để không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu mặc dù họ biết là có khả năng làm việc đó và không có gì ngăn cản họ. Theo nghĩa này, một hành vi được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải thỏa mãn những điều kiện sau:

Điều kiện khách quan: Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.

Chuẩn bị phạm tội hoặc tội chưa đạt chưa hoàn thành là những trường hợp người phạm tội mới tìm kiếm, sửa soạn công cụ phương tiện hoặc chưa hoàn thành hành vi phạm tội của mình đã tự ý nửa chừng chấm dứt, tuy rằng họ còn có khả năng thực hiện tội phạm đến cùng.

Theo đề bài, C đang đợi H hoàn thành việc phạm tội để cùng đào tẩu nhưng H chưa hoàn thành việc phạm tội thì C đã bỏ về trước. Như vậy, hành vi phạm tội của C ở giai đoạn chưa đạt ( H chưa trộm được xe C đã bỏ về), chưa hoàn thành ( chưa thực hiện hết hành vi của mình).

Điều kiện chủ quan: Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát.

Để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi chủ thể dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm phải hoàn toàn do động lực bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin rằng hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp được tội phạm. Việc dừng lại, không thực hiện tiếp tội phạm trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải là sự thể hiện của việc từ bỏ hẳn ý định phạm tội, chấm dứt hành vi phạm tội một cách triệt để, chứ không phải là tạm ngưng việc thực hiện tội phạm để chờ cơ hội thuận tiện hơn, chuẩn bị phương tiện tinh vi hơn, thủ đoạn xảo quyệt hơn rồi sẽ tiếp tục phạm tội.

Ở đây, ta thấy, C hoàn toàn không có ý định bỏ về ngay từ đầu. C bỏ về là do thấy có người lại gần, sợ bị phát hiện. Như vậy, hành vi của C rõ ràng là hoàn toàn không tự nguyện, phải chịu tác động từ bên ngoài, bị ngăn trở bởi yếu tố khách quan.

Như vậy, hành vi của C không đạt đủ 2 điều kiện yêu cầu, nên không thể coi hành vi của C là tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội.
4. Giả sử khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe vừa trôm cắp được, T cho H gửi xe thì T có bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức không?

Trả lời: 

Trong trường hợp trên, T không bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức.

Giải thích: 

Điều 20 quy định về đồng phạm như sau: 

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

Căn cứ vào quy định trên thì người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm, hứa hẹn trước sẽ che giấu người phạm tội và các tang vật chứng hoặc hứa sẽ tiêu thụ các tài sản do phạm tội mà có. Hành vi của người giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào hành động nhưng có khi được thực hiện ngay lúc thực hiện tội phạm, họ chỉ giúp người phạm tội có thêm động lực, điều kiện để thuận lợi, yên tâm hơn khi thực hiện tội phạm. 

Như vậy, để trở thành người giúp sức trong đồng phạm, thì cần thoả mãn cả 2 điều kiện:

- Thứ nhất: phải cùng cố ý phạm tội với người đã có ý định phạm tội (điều kiện để xác định đồng phạm)

- Thứ hai: việc giúp sức phải được diễn ra khi và chỉ chỉ khi họ giúp cho người vốn đã có ý định phạm tội hoặc đang thực hiện tội phạm .

Chỉ cần chứng minh T không thoả mãn 1 trong 2 điều kiện trên là có thể kết luận T không bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức.

Xem xét cụ thể các điều kiện đó  trong tình huống được đưa ra:

H sau khi trộm được chiếc xe, tháo gương, thay biển số rồi tới gửi tại phòng trọ của T. H có nói cho T biết đây là xe vừa trộm được và T vẫn cho H gửi xe. Tuy nhiên, việc trộm cắp xe máy của H đã xảy ra từ trước khi H mang xe đến gửi ở phòng T tức là ngay từ đầu T không hề được biết cho đến khi H đến nhờ T. H và C đã bàn bạc lên kế hoạch để trộm xe máy mà không hề có sự tham gia của T. Như vậy, T đã tham gia khi tội phạm mà H và C thực hiện đã kết thúc. Đối chiếu với điều kiện thứ hai vừa đưa ra ra ở phía trên, không thể coi T là người giúp sức. 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật Hình sự Việt Nam tập 1, NXB Công an Nhân dân, 2013
2. Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, NXB Tư pháp, 2011.
3. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an Nhân dân, 2006.
4. Đặng Văn Doãn, Vấn đề đồng phạm, NXB Pháp lý, 1986.

Nếu muốn download không mất phí, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Phạm Văn Ngọc đã chia sẻ tài liệu!

No comments:

Post a Comment