Điều 130. Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Người nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
Định nghĩa: Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là hành vi dùng vũ lực hoặc hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội
Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là tội phạm đã được quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội phạm này không có gì sửa đổi bổ sung. Có lẽ, vì tội phạm này trong thực tiễn rất ít xử lý về hình sự nên cũng chưa thấy có gì vướng mắc để sửa đổi, bổ sung.
Đặc điểm của tội phạm này chỉ có một khung hình phạt, không quy định hình phạt bổ sung; khung hình phạt cũng rất nhẹ, mức hình phạt cao nhất của tội phạm này cũng chỉ có một năm tù. Điều này thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta chủ yếu nhằm giáo dục, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp thật cần thiết. Việc Nhà nước ta quy định hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là thể hiện chính sách nam nữ bình đẳng, chống tư tưởng phong kiến, trọng nam khinh nữ.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Đối với tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, còn người dưới 16 tuổi không phải là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này là tội phạm ít nghiêm trọng. Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ. Tuy nhiên, đối với tội phạm này cũng có nhiều trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ . Quyền này được quy định tại Hiến pháp năm 1992 ( Điều 52: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Điều 54: Công dân, không phân biệt nam nữ...có quyền bầu cử, quyền ứng cử theo quy định của pháp luật) ; đặc biệt, Điều 63 Hiến pháp năm 1992 quy định cụ thể quyền bình đảng của phụ nữ như sau:
“Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.”
Các quyền trên còn được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật khác của Nhà nước có liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ
Đối tượng tác động của tội phạm này là các hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội của phụ nữ
3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Theo điều văn của điều luật thì tội phạm này chỉ có một hành vi khách quan, đó là hành vi cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, để cản trở phụ nữ tham gia các hoạt động trên, người phạm tội thực hiện nhiều thủ đoạn khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, động cơ của người phạm tội.
Dùng vũ lực đối với phụ nữ để cản trở họ không được tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội là dùng sức mạnh thể chất tác động vào thân thể của phụ nữ như: đánh, trói, nhốt trong buồng, trong hầm để phụ nữ không tham gia được các hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội. Ví dụ: Vì không muốn cho vợ tham gia đội văn nghệ của cơ quan, nên Trần Quốc V đã túm tóc đánh chị Nguyễn Thị H làm cho chị H không tham gia đội văn nghệ được. Hành vi dùng vũ lực của người phạm tội đối với phụ nữ phải là hành vi chưa gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của phụ nữ tới mức cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nếu tỷ lệ thương tật tới mức cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tôi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hành vi dùng vũ lực trong tội phạm này cũng tương tực như hành vi của người phạm tội hành hạ người khác quy định tại Điều 110 Bộ luật hình sự, nhưng người bị hại trong tội hành hạ người khác là người lệ thuộc vào người phạm tội, còn ở tội phạm này, người bị hại không phải là người lệ thuộc vào người phạm tội. Nếu người phụ nữ lệ thuộc vào người phạm tội thì dù có hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hành hạ người khác theo Điều 110 Bộ luật hình sự mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ; nếu người phụ nữ là bà, mẹ, vợ, con, cháu, người có công nuôi dưỡng người phạm tội thì hành vi hành hạ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự.
Hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội là hành vi không phải là vũ lực nhưng cũng làm cản trở được phụ tham gia các hoạt động trên như: đe doạ dùng vũ lực, đe doạ sẽ gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần của người phụ nữ như: doạ sẽ ly hôn nếu cứ tham gia, doạ công bố bí mật đời tư, doạ đuổi việc, cắt tiền thưởng, tiền lương...
b. Hậu quả
Hâu quả của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là những thiệt hại do hành vi cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần, nhưng chủ yếu là thiệt hại về tình thần mà trực tiếp là các quyền của phụ nữ bị xâm phạm. Nếu có thiệt hại về vật chất thì những thiệt hại đó chỉ là gián tiếp do hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ gây ra. Nếu những thiệt hại về vật chất lại do hành vi cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội gây ra thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng, Ví dụ: Do không muốn người yêu của mình tham gia đội văn nghệ, nên Đào Văn T đã đánh đập chị Vũ Thị C gây thương tích có tỷ lệ thương tật 12%. Hành vi của T không còn là hành vi phạm tội xâm phạm quyền bình đảng của phụ nữ mà là hành vi cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người kkác quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự, còn hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ chỉ là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt. Trường hợp, người phạm tội dùng vũ lực đối với phụ nữ để cản trở họ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội nhưng không có tỷ lệ thương tật hoặc tỷ lệ thương tật dưới 11% và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ a đến k khoản 1 Điều 104 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ.
4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ được thực hiện do cố ý (cố ý phạm tội), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.
Nói chung, người phạm tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ thực hiện hành vi của mình do cố ý trực tiếp (hình thức lỗi cố ý thứ nhất), nhưng cũng có trường hợp người phạm tội chỉ nhận thức được hành vi là trái pháp luật, có thể thấy trước hậu quả của hành vi, không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xẩy ra (hình thức lỗi cố ý gián tiếp).
Người phạm tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn người phụ nữ không tham gia được các hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
Điều 130 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội, có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
So với Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 130 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn. Do đó, hành vi phạm tội nào xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì áp dụng các quy định của Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1985 mà không áp dụng Điều 130 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Tuy nhiên, tại mục 4 Thông tư liên tịch số 02/2000 TTLT của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an lại hướng dẫn: “Đối với những tội phạm đã được quy định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so sánh tại các điểm từ điểm b1 đến điẻm b6 Mục 2 và tại các điểm từ điểm d1 đến điểm d6 Mục 3 Thông tư này mà vẫn giữ nguyên trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự 1999, thì áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự”. Hướng dẫn này trái với quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999. Thiết nghĩ các cơ quan ban hành Thông tư trên cần sửa đổi kịp thời mục 4 để việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 chính xác hơn.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo Điều 130 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ. Đây cũng là một trong rất ít trường hợp quy định mức cao nhất của khung hình phạt có một năm tù. Điều này, cho thấy chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội này chủ yếu lấy giáo dục là chính hoặc giải quyết bằng những biện pháp hành chính; việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đối với những trường hợp cần thiết.
Nguồn: BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 - PHẦN CÁC TỘI PHẠM - Thạc sĩ Luật học Đinh Văn Quế, Tòa án Nhân dân tối cao.
No comments:
Post a Comment