27/09/2013
Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện
Bài tập học kỳ môn Pháp luật quyền trẻ em đề số 4: Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện.

Quyền được học tập là một trong những quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật Nhà nước ta qui định. Quyền học tập là một quyền tối quan trọng, là loại quyền trong lĩnh vực văn hóa và liên quan đến tất cả các quyền kinh tế, xã hội. Xét theo khía cạnh nào đó, đây cũng là quyền dân sự và quyền chính trị bởi quyền giáo dục được xem là trung tâm để thực thi một cách có hiệu quả tất cả các quyền trên.

Đây là một quyền đương nhiên mà em được hưởng, mọi trẻ em không phân biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều kiện để ai cũng được học hành.

Song vẫn còn nhiều vấn đề cần có sự quan tâm của cả xã hội, của mỗi gia đình trong việc chăm sóc, tạo điều kiệ cho trẻ em – những mầm non tương lai của đất nước được học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện” cho bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền trẻ em của mình. Mong rằng trong quá trình làm bài cũng như những ý kiến đóng góp hữu ích của các thầy (cô) sẽ giúp em hoàn thiện kiến thức về vấn đề này.

BÀI LÀM

I. Khái quát chung về quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện quyền được học tập của trẻ em.

1. Quyền được học tập của trẻ em.

a. Quyền được học tập của trẻ em là gì?

Giáo dục là một trong những chính sách hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú trọng. Bởi vì, "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện; có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa đó, trẻ em có quyền được tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để trở thành công dân có đức, có tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em qui định:

“1-Trẻ em có quyền được học tập;
  2-Trẻ em học bậc tiểu học  trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí.”

Trẻ em có quyền được học tập, điều này có nghĩa là bất kì trẻ em dưới mười sáu tuổi, là công dân Việt Nam đều có quyền được đi học đúng độ tuổi, có quyền tham gia học đầy đủ các chương trình giáo dục của Nhà nước. Quyền năng này được Nhà nước qui định và bảo đảm thực hiện. Mọi hành vi ngăn cấm việc trẻ em không được thực hiện  quyền được học tập một cách chính đánh đều là hành vi đi ngược lại lợi ích,sự phát triển một cách bình thường của trẻ. Việc qui định cụ thể thành văn bản pháp luật của Nhà nước cho thấy sự quan tâm đặc biệt của toàn thể xã hội đối với những mầm non tương lai đất nước sau này.

Đồng thời, quyền được học tập của trẻ em còn được ghi nhận là việc trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải  trả học phí. Đây là một qui định nhằm khuyến khích học tập ở trẻ em nói riêng và công tác xã hội hóa giáo dục nói chung của đất nước ta. Như vậy, hiểu được một cách khái quát quyền được học tập của trẻ em sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn rõ hơn về các quyền cơ bản nói chung của trẻ em cũng như việc thực hiện biện pháp bảo đảm về quyền được học tập trong gia đình hiện nay.

b. Quy định của pháp luật về quyền được học tập của trẻ em.

Những quy định của pháp luật về quyền được học tập của trẻ em bao gồm:

- Điều 59 hiến pháp năm 1992 qui định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng, nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp.”

- Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 xác định giáo dục tiểu học ở Việt Nam là phổ cập bắt buộc và miễn phí. Phổ cập giáo dục tiểu học vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của trẻ em. Điều 1 Luật phổ cập giáo dục tiểu học còn xác định rõ: “Nhà nước thực hiện chính sách giáo dục tiểu học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 5 đối với tất cả các trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi”. Như vậy, mọi trẻ em trong độ tuổi qui định đều có quyền và nghĩa vụ học tập để đạt được trình độ giáo dục phổ cập. Ngoài ra, khoản 3 điều 6 luật này còn qui định “Trẻ em có khả năng phát triển đặc biệt thì được học lớp 1 trước 6 tuổi hoặc học vượt lớp nhằm tạo điều kiện bồi dưỡng cho những học sinh có năng khiếu được phát triển tài năng”.

2. Trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện quyền được học tập của trẻ em.

Bên cạnh việc qui định trực tiếp quyền được học tập của trẻ em, các văn bản pháp luật của VIệt Nam cũng chú ý đến việc qui định các chính sách để bảo vệ quyền đó nhất là trách nhiệm, nghĩa vụ của gia đình, nhà trường, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội.

Hiến pháp năm 1992 đã đề cao trách nhiệm của gia đình, cha mẹ trong việc giáo dục con cái “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những người công dân tốt” (điều 64). Điều 34 luật hôn nhân và gia đình 2000 cũng nêu rõ: “cha mẹ có nghiã vụ chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất trí tuệ và đạo đức. Trong bậc tiểu học, điều 18 luật phổ cập giáo dục tiểu học qui định trách nhiệm của cha mẹ người đỡ đầu của trẻ em là ghi tên cho con hoặc trẻ em được đỡ đầu đi học tại trường, lớp tiểu học trên địa bàn cư trú nơi thuận tiện nhất, tạo điều  kiện để con hoặc trẻ em được đỡ đầu hoàn thành giáo dục tiểu học, kết hợp với nhà trường, tổ chức xã hội trong việc giáo dục con cái hoặc trẻ em được đỡ đầu  thực hiện giáo dục gia đình theo những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.   

Với các bậc học khác, cha mẹ, người giám hộ cũng có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ được học  tập, rèn luyện, tham gia các hoạt động của nhà trường (điều 94 luật giáo duc năm 2005).

Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn”.

Như vậy, trách nhiệm giáo dục trẻ em trước tiên thuộc về gia đình cụ thể là cha mẹ, người giám hộ trong việc tạo điều kiện cho trẻ em thực hiện quyền học tập, học hết chương trình giáo dục phổ cập và cho trẻ học ở trình độ cao hơn. Bởi vì, trẻ em được sinh ra và nuôi dạy trong môi trường gia đình. Các thành viên trong gia đình đều phải có trách nhiệm chăm sóc cho các em lớn khôn về mặt thể chất và trí tuệ, đồng thời có trách nhiệm dạy bảo các em những điều tốt đẹp, đạo nghĩa giáo dục các em biết quan tâm, tôn trọng cuộc sống của những người khác trong gia đình và cộng đồng. Do đó, trách nhiệm cha mẹ trong việc đảm bảo học tập của trẻ em đó là:

Thứ nhất, cần tạo môi trường chăm sóc thuận lợi, cha mẹ nên một bầu không khí yêu thương, đoàn kết, gắn bó quan tâm giữa các thành viên gia đình, cho dù cuộc sống còn nhiều vất vả, nhưng khi có trẻ em trong gia đình thì các thành viên phải cố gắng bỏ qua những mâu thuẫn, xích mích để cho trẻ em luôn luôn có cảm tưởng rằng ngôi nhà của mình chính là tổ ấm. Từ đó, các em sẽ chú tâm vào việc học tập hơn, nhiều trẻ em chỉ vì cha mẹ cãi nhau mà buồn chán dẫn đến tâm lý chán nản, bỏ bê việc học hành, tệ hơn là các em bị bạn xấu dụ dỗ bỏ học đi lang thang.

Thứ hai, tạo điều kiện cho trẻ em được học tập, phát huy khả năng của trẻ. Cha mẹ phải quan tâm, lắng nghe và trò chuyện với trẻ để hiểu và giúp đỡ trẻ trong học tập Cha mẹ có thể cùng học với trẻ, xây dựng thời khóa biểu cho trẻ để trẻ nghiêm túc, tập trung trong học tập hơn.

Với những trẻ em có thiên hướng xuất hiện một số năng khiếu, cha mẹ phải biết phát hiện, khuyến khích tạo mọi điều kiện để ươm mầm tài năng. Việc chăm sóc phát triển trí tuệ cho trẻ em có quan hệ chặt chẽ với việc giáo dục, xã hội hoá trẻ em. Quan điểm giáo dục hiện nay coi gia đình là một trong ba môi trường giáo dục trẻ em. Tuy nhiên gia đình vẫn là trường học đầu tiên và suốt đời  của mỗi con người. Đó là bởi vì gia đình có trách nhiệm, là tình cảm và cũng là quyền uy (ông bà, cha mẹ, anh, chị). Gia đình thực hiện chức năng giáo dục thông qua 3 giai đoạn phát triển của trẻ em: từ 1-3 tuổi, từ 3-6 tuổi và từ 6-18 tuổi. Cả ba giai đoạn trên, trẻ em được giáo dục, dậy dỗ của gia đình, lớn lên chịu ảnh hưởng các chuẩn mực trong gia đình và dần dần tiếp cận các chuẩn mực ngoài xã hội.

Thứ ba, để thực hiện tốt chức năng giáo dục, mỗi thành viên trong gia đình tuỳ thuộc vị trí của mình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị) phải trở thành những tấm gương sáng cho con trẻ học tập, làm theo. Hiện nay, phong trào: ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền đang thực sự phát huy hiệu quả, tác động quan trọng trong giáo dục của gia đình. Những hành vi mà trẻ tiếp nhận, học tập trong gia đình không chỉ là những kinh nghiệm của người lớn mà bằng cả những tình cảm của những người thân yêu nhất. Gia đình thông qua thái độ, tình cảm, tâm lý, mối liên hệ thường xuyên bền vững với trẻ em, khéo léo truyền thụ cho chúng những hành vi ứng xử trong nhà và ngoài xã hội. Không thể có sự hình thành và phát triển nhân cách đầy đủ và hoàn thiện nếu không có một môi trường giáo dục gia đình thuận lợi.

Tùy vào khả năng của trẻ mà có cách thức cũng như lựa chọn trong việc học tập của trẻ. Nhiều gia đình luôn muốn con mình học thật nhiều để biết nhiều thứ theo kịp bạn bè, rồi phải học ở trường danh tiếng giáo dục tốt mà không để ý đến khả năng của trẻ. Do đó, cha mẹ cần quan tâm đến trẻ nhiều hơn để nắm bắt khả năng học tập của trẻ từ đó có phương pháp cho trẻ học tập phù hợp.

Thứ tư, cha mẹ phải có trách nhiệm cho con em mình được đến trường học tập. Trước tiên cần phải đăng kí khai sinh cho trẻ, nhiều bậc cha mẹ nhất là vùng sâu, vùng xa do hiểu biết kém hoặc ở vùng xa xôi ngại đi đăng kí cho con nên con đến tuổi đi học mà vẫn chưa có giấy khai sinh cho trẻ dẫn đến nhiều trường hợp trẻ không được đến trường. Bên cạnh đó, cũng có những gia đình vì hoàn cảnh khó khăn mà bắt con mình phải bỏ học ở nhà giúp đỡ gia đình. Nhiều em mơ ướ được đến trường, được đi học như bao bạn khác mà không thành hiện thực được, tuổi các em phải được đi học, đến trường đó là quyền của các em vậy mà các em phải ở nhà trông em, phải lao động giúp gia đình. Những vùng dân tộc vẫn còn những hủ tục lạc hậu đó là bắt trẻ em gái ở nhà, không cho đi học, điều này khiến cho trẻ không được đến trường như bao trẻ khác. Mọi trẻ em đều được đến trường học tập không phân biệt nam nữ, giàu hay nghèo, có bệnh HIV hay không bệnh....tất cả các em đều được học tập như trẻ em bình thường  khác. Chính vì vậy, trách nhiệm của gia đình trong việc bảo đảm việc học tập của trẻ em là rất lớn.

II. Thực trạng về quyền được học tập và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện.

Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn. Đặc trưng của gia đình nông thôn là lao động nông nghiệp, sản xuất nhỏ, kĩ thuật lạc hậu, chủ yếu nhờ vào sức lực cơ bắp và kinh nghiệm. Sự phân hóa trong xã hội nước ta cũng khá  lớn dẫn đến những cách thức khác nhau trong việc thực hiện quyền của trẻ em trong đó có quyền được học tập.

Đặt trong bối cảnh, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, hòa nhập quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, gia đình Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của mình, trong đó có chức năng xã hội hóa trẻ em. Chính vì vậy trong Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28 tháng 6 năm 2000 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã yêu cầu: “Đề cao vai trò và trách nhiệm của gia đình, giúp đỡ và tạo điều kiện cần thiết để các gia đình thực hiện trách nhiệm đối với thế hệ trẻ, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển của trẻ em. Tôn trọng và bảo đảm cho trẻ em được thực hiện các quyền và bổn phận trước gia đình và xã hội”.

Hiện nay, trẻ em được đi học đúng độ tuổi chiếm tỉ lệ cao. Theo báo cáo của Thứ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo Đặng Huỳnh Mai về số học sinh tiểu học đi học đúng độ tuổi  như sau:
  • Năm 1998-1999:chiếm 94, 8%
  • Năm 2005-2006:chiếm 98, 8%
  • Tháng 6/2006: 36 tỉnh, thành đạt chuẩn tiểu học đúng độ tuổi
Những con số trên đã cho thấy: quyền được học tập của trẻ em ngày càng được đảm bảo mà biểu hiện trước hết đến việc trẻ em được đi học đúng độ tuổi qui định. Tuy đó chỉ là con số bề ngoài, chưa phản ánh chất lượng bên trong nhưng nó chứng minh các gia đình hiện nay quan tâm đặc biệt đến việc học tập của trẻ em.

Quyền được học tập của trẻ em trong các gia đình hiện nay bên cạnh việc được đề cao, còn có sự khác biệt rõ rệt giữa các tỉnh thành  và huyện,  thị trong xã hội, giữa gia đình thành thị và gia đình nông thôn

Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của đất nước vì vậy đời sống của người dân phần lớn là cao hơn nhiều so với cả nước. Trẻ em ở đây được các gia đình quan tâm đặc biệt. Các gia đình luôn chú ý đến quyền được học tập đầy đủ với những điều kiện tốt nhất cho con trẻ. Tại các thành phố này, bên cạnh các trường công lập còn mở rất nhiều trường tư thục, trường quốc tế, trường bán liên kết,... với cơ sở vật chất hiện đại, chất lượng giáo viên đạt chuẩn trải dài theo từng bậc học và độ tuổi của trẻ em. Trẻ em ở các thành phố nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng được gia đình, nhà trường và toàn thể xã hội đặc biệt quan tâm cả về số lượng cũng như chất lượng học tập. Số học sinh đi học chiếm tỉ lệ cao, chất lượng học cũng tăng lên theo từng năm.

Nếu như ở các đô thị, quyền học tập của trẻ em được các gia đình phần lớn quan tâm đảm bảo tốt thì ở các vùng miền núi, các vùng sâu, vùng xa thì quyền học tập của trẻ vẫn còn bị hạn chế nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là mức sống của người dân còn thấp, ý thức của gia đình các bậc cha mẹ chưa cao…. vì vậy, vẫn xảy ra nhiều trẻ em không được đi học đúng độ tuổi,  các trang thiết bị  như sách vở,  bàn ghế, trường lớp để phục vụ nhu cầu học tập thiết yếu của trẻ chưa được đảm bảo. Do đó, chất lượng giáo dục dù đã phấn đấu nhiều nhưng vẫn còn có sự yếu kém so với mặt bằng chung của cả nước.

Huyện Vũng Liêm thuộc tỉnh Vĩnh Long là ví dụ điển hình. Ở đây, cơ sở vật chất rất nghèo nàn, thiếu thốn, tình trạng trường học là nhà tranh vách đất còn phổ biến, chưa có phòng vệ sinh, phòng làm việc của hiệu trưởng. Công tác xã hội hóa còn chưa thỏa đáng. Ở bậc tiểu học, cả huyện chỉ có 1 trường đạt chuẩn quốc gia, 1 giáo viên giỏi toàn quốc… Nói chung là ở đây, trẻ em chưa được các gia đình quan tâm đúng mức trong việc học hành.

Phổ biến ở các vùng quê là tình trạng trẻ em bỏ học để ở nhà giúp gia đình làm nông, hoặc là học nhưng không đủ tiền để theo  hết các bậc học. Nhiều em lang thang lên các thành phố lớn kiếm việc làm, tình trạng trẻ bị lạm dụng sức lao động, bị lạm dụng tình dục có nhiều.

Theo qui định, quyền được học tập của trẻ em còn được thể hiên qua việc: trẻ em học bậc tiểu học  trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí. Qui định này thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta luôn chăm sóc tới trẻ em, tạo điều kiện tố nhất cho trẻ em. Tuy nhiên, trong xã hội diễn ra thực trạng, trẻ được miễn học phí nhưng lại phải đóng quá nhiều khoản tiền khác khiến một số gia đình gặp khó khăn trong việc đảm bảo quyền được học tập cho trẻ em.

Sự phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường vẫn chưa chặt chẽ dẫn đến quyền được học tập của trẻ bị hạn chế. Đương cử như vụ án ở huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Thầy giáo Đào Công Thọ tự sắp xếp buổi học “thực hành” về hô hấp nhân tạo, và  liên tiếp thực hiện hành vi dâm ô với 9 học sinh và 3 trong số đó bị hiếp dâm. Vụ án này cho thấy: quyền được học tập của trẻ chưa được đảm bảo, khi mà trẻ hoàn toàn có quyền từ chối buổi thực hành đó, vì học không đúng cách. Cũng như việc nhà trường không có môi trường học tập đảm bảo, sự liên hệ giữa gia đình và nhà trường vẫn chưa chặt chẽ.

Điều cần quan tâm hơn nữa chính là quyền được học tập của các em bị nhiễm HIV. Các em bị nhiễm HIV đang rơi vào tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử gây trở ngại cho việc học tập của trẻ em nhiễm HIV rất nổi cộm ở các nhà trường, song chủ yếu là do người lớn chứ trẻ em thì rất vô tư. Chỉ có rất ít trường học ở Việt Nam hiện nay chấp nhận dạy dỗ trẻ em nhiễm HIV hòa nhập với trẻ em bình thường, còn đại đa số là không chấp nhận. Nhưng việc không chấp nhận này không phải do các thày cô giáo mà do sức ép của các bậc phụ huynh, nhiều người lôi kéo nhau tạo nên làn sóng phản đối quyết liệt, không cho trẻ “có HIV”được học chung với con em mình. Ngay tại Hà Nội, một vị đại biểu quốc hội cũng đã từng công khai phát biểu: “Nếu tôi có cháu, tôi cũng không cho cháu tôi học ở lớp có trẻ nhiễm HIV”. Nếu chúng ta không kịp thời có ngay những biện pháp ngăn chặn thì tình trạng kỳ thị, ngăn cản việc học tập của trẻ “có HIV”sẽ bùng nổ thành “đại dịch”và đương nhiên sẽ thành vấn đề nghiêm trọng. Các em bị HIV cũng có quyền được học tập như bao trẻ em bình thường khác.

Đó là một số vấn đề nổi cộm hiện nay trong việc thực hiện quyền được học tập của trẻ em trong các gia đình. Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận thì vẫn còn những vướng mắc cần giải quyết, đó là các gia đình nông thôn chưa đủ điều kiện kinh tế, ý thức chưa cao trong việc đảm bảo quyền lợi trẻ; các gia đình thành thị bị chịu tác động mặt trái của kinh tế toàn cầu hóa dẫn đến bỏ bê con cái hay các hiện tượng tiêu cực ở trẻ,... Vì vậy, chúng ta cần có những điều chỉnh kịp thời, những biện pháp bảo đảm tốt nhất để giúp trẻ phát huy quyền của mình.

III. Một số biện pháp nhằm bảo đảm quyền được học tập của trẻ em trong các gia đình hiện nay.

Gia đình có một chức năng vô cùng quan trọng trong việc nuôi dưỡng chăm sóc,giáo dục trẻ em thành con người có ích cho xã hội. Chúng ta cần có những biện pháp hỗ trợ tăng cường vai trò của gia đình trong việc thực hiện quyền chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em đặc biệt là trong thực hiện quyền được học tập của trẻ.

Để đảm bảo quyền được học tập của trẻ em thì các gia đình trước hết phải đảm bảo các quyền cơ bản khác như chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng cho trẻ, vì có trẻ khỏe mạnh thì trẻ mới học tập tốt được. Nội dung giáo dục trong gia đình thường bao gồm: giáo dục đạo đức, lối sống, lý tưởng; giáo dục tri thức khoa học; giáo dục lao động, hướng nghiệp; giáo dục chăm sóc sức khỏe, thẩm mỹ;...
Hiệu quả giáo dục, đảm bảo quyền học tập của trẻ phụ thuộc nhiều vào trẻ và phương pháp giáo dục của gia đình đang  sử dụng.Các phương pháp bảo đảm quyền được học tập thường được sử dụng trong các gia đình đó là:
  • Giáo dục bằng tình cảm:  đây là phương pháp đặc trưng trong giáo dục gia đình, thể hiện tính chất quyền uy và khoan dung. Người cha có những lúc dùng quyền uy của mình để quyết định vấn đề lớn ảnh hưởng đến gia đình. Người mẹ với tấm lòng khoan dung rộng lớn,,nhẹ nhàng khuyên nhủ con cái. Hình thức rất phong phú như kể chuyện... và thường đi vào tâm lí trẻ nhẹ nhàng, giúp trẻ ý thức hơn với việc học và hiểu biết.
  • Giáo dục bằng nêu gương: cha mẹ nêu những tấm gương về người tốt để cho trẻ có cái nhìn mới về con người, hướng trẻ thành người có ích, tránh phạm tội.
  • Giáo dục bằng tăng cường quản lí: Khi trẻ bước vào độ tuổi vị thành niên thì việc kết hợp giữa nhà trường-gia đình-xã hội cần phải tăng cường. Ví dụ như: quản lí giờ giấc, quản lí việc học. Kinh nghiệm cho thấy phương pháp này của các gia đình đặc biệt ở thành thị đã góp phần làm giảm tệ nạn xã  hội ở trẻ, giúp trẻ say mê học tập hơn.
Cần phải lưu ý rằng,muốn quyền được học tập của trẻ em được đảm bảo thì bản thân các gia đình cũng cần củng cố nhận thức về Luật bảo vệ,chăm sóc,giáo dục trẻ em và Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Có như vậy, mới giúp quyền trẻ em thực thi hiệu quả.

- Cần phải hỗ trợ tạo dựng môi trường học tập thân thiện với trẻ em trong gia đình, trường học và cộng đồng. Tăng cường các biện pháp khuyến khích trẻ học tập chủ động, thông qua các phương pháp dạy lớp ghép, các kỹ năng sống, giáo dục song ngữ, cung cấp vật tư dạy học.

- Cần đẩy mạnh sự phối kết hợp giữa cơ quan hữu quan, giúp tăng cường  hơn nữa việc thực hiện hiệu quả quyền trẻ em.

Chính phủ cần giao cụ thể việc cho các bộ, ủy ban,… Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ em giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lí nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cuả mình, chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt nam trong việc chăm sóc, bảo vệ và nhất là giáo dục trẻ. Bộ Giáo dục và đào tạo cần có những chủ trương khuyến khích học tập ở trẻ,có những cân đối giữa giáo dục  nông thôn và thành thị.Bộ y tế,Bộ Văn hóa thông tin, Uỷ ban thể dục thể thao. Cần phải tuyên truyền ý thức rèn luyện sức khỏe trẻ, tạo điều kiện chăm sóc trẻ… vì có sức khỏe, trẻ mới phát huy được quyền học tập của mình.

- Cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đảm bảo quyền trẻ em. Nhà nước luôn có chính sách mở rộng hợp tác quốc tế,sự tham gia của các tổ chức quốc tế như:UNCIEF, WHO,.. giúp cho trẻ em có nhiều hơn cơ hội được thực hiện quyền của mình, giúp cho các gia đình, xã hội nâng cao ý thức,…

- Cần tăng cường nguồn tài chính cho công tác bảo đảm quyền được học tập của trẻ em. Nguồn kinh phí sẽ giúp nâng cao cơ sở vật chất cho trẻ  học tập, giúp việc tuyên truyền vận động người dân có hiệu quả hơn,...

- Cần ban hành hệ thống văn bản pháp luật chi tiết hơn, cụ thể hơn về quyền trẻ em, những chế tài với các hành vi vi phạm quyền trẻ em trong đó có vi phạm quyền được học tập của trẻ em.

- Cần đặt quyền được học tập của trẻ em trong hệ thống các quyền cơ bản khác,trong mối liên hệ thống nhất giữa gia đình – nhà trường và xã hội để phát huy cao hơn nữa quyền này. Vì vậy, các biện pháp trên muốn phát huy được tác dụng thì không thể đứng đơn lẻ được mà nó phải có mối quan hệ hữu cơ, qua lại với nhau với mục đích là chăm sóc trẻ em, giáo dục trẻ em tốt nhất.

KẾT LUẬN

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Phải khéo nuôi dạy trẻ, giúp cho nhi đồng phát triển sức khỏe và trí óc, thành những đứa trẻ có  bốn đức tính tốt: hoạt bát, mạnh dạn, chất phác, thật thà. Dạy trẻ cũng như trồng cây non, trồng cây non được tốt thì sau này cây lên mới tốt. Dạy trẻ nhỏ thì sau này các cháu mới thành người tốt. Giáo dục các em là việc chung của gia đình - nhà trường - xã hội.” Lời căn dặn của Bác  cho thấy từ trước đến bây giờ và cả sau này nữa, trẻ em luôn cần được chăm sóc,dạy bảo của gia đình, luôn cần được sự quan tâm của toàn xã hội.

Giáo dục trẻ em là vấn đề quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia, nó quyết định tương lai đât nước. Vì vậy Việt Nam rất coi trọng việc giáo dục trẻ em và coi đó là một vấn đề trọng điểm hàng đầu và cấp bách hiện nay bởi thế hệ tương lai có đủ đức đủ tài thì đất nước mới phát triển bền vững.

Để thế hệ trẻ hôm nay thực sự là những chủ nhân tương lai của đất nước, trách nhiệm đầu tiên là của mọi gia đình, gia đình phải thực sự là tổ ấm, là nơi nuôi dưỡng, hình thành nhân cách con trẻ, là thành trì an toàn, phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình và trẻ em. Cha mẹ phải tạo điều kiện cho con em mình học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập hiện nay thì việc bảo đảm quyền được học tập của trẻ em giúp thắt chặt mối quan hệ gia đình - xã hội, phát huy những nền tảng truyền thống, cũng như là học tập cái mới thông qua giao lưu, đối thoại.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
I. Khái quát chung về quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện quyền được học tập của trẻ em. 1
1. Quyền được học tập của trẻ em. 1
a. Quyền được học tập của trẻ em là gì? 1
b. Quy định của pháp luật về quyền được học tập của trẻ em. 3
2. Trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện quyền được học tập của trẻ em. 3
II. Thực trạng về quyền được học tập và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện. 6
III. Một số biện pháp nhằm bảo đảm quyền được học tập của trẻ em trong các gia đình hiện nay. 11
KẾT LUẬN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004– NXB Lao động.
2. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 – NXB tư pháp.
3. Luật giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)- NXB Lao động
4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
5. NĐ số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 qui định chi tiết một số điều của luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 qui định những hành vi bị coi là cản trở việc học tập của trẻ em.
6. Lê thị Mai Hường – Quyền trẻ em trong lĩnh vực giáo dục theo Công ước của Liên Hợp Quốc năm 1989 và pháp luật Việt Nam – HN 2011.
7. Website: unicef. org

No comments:

Post a Comment