18/08/2014
Phân tích tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân - Bình luận Bộ luật Hình sự 1999 - Tập 3
Điều 126. Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân 

1. Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.

Định nghĩa: Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân là hành vi lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân.

Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân là tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định xâm phạm quyền bầu cử của công dân, mà chưa quy định xâm phạm quyền ứng cử. 

Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai hành vi phạm tội (hành vi xâm phạm quyền bầu cử và hành vi xâm phạm quyền ứng cử), do đó, phải căn cử vào từng trường hợp cụ thể mà định tội cho phù hợp. Nếu người phạm tội chỉ có hành vi xâm phạm quyền bầu cử của công dân thì định tội là “xâm phạm quyền bầu cử của công dân” mà không định tội là “xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân”. Nếu người phạm tội chỉ có hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công dân thì định tội là “xâm phạm quyền ứng cử của công dân”. Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi thì định tội là “xâm phạm quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân”.

Ngoài việc quy định thêm hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công dân, Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định thêm các tình tiết tăng nặng là dấu hiệu định khung hình phạt và hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, còn người dưới 16 tuổi không phải là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng.

Nói chung, chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng trong một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Đối với những người này, thông thường phạm tội thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cá biệt có trường hợp vì động cơ cá nhân hoặc vụ lợi mà xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm 

Bản thân tên của tội phạm này đã nêu khách thể của tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân chính là quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân, là một trong những quyền cơ bản của công dân. Quyền này được ghi nhận tại Điều 54 Hiến pháp năm 1992: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”. Quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bẩu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cũng như các quy định cụ thể về việc tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Nếu theo Hiến pháp năm 1992 thì quyền bầu cử, quyền ứng cử là khách thể của tội phạm này chỉ bao gồm quyền bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và quyền ứng cử vào đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, chứ không bao gồm quyền bầu cử, quyền ứng cử vào các chức vụ trong các cơ quan, tổ chức khác như: Bầu đại biểu đi dự đại hội Đảng các cấp, bầu các chức danh của của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; ứng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ các cấp hoặc các chức vụ trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Tuy nhiên, theo điều văn của điều luật thì khách thể của tội phạm này lại không chỉ giới hạn bởi quyền bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và quyền ứng cử vào đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, mà có thể bao gồm các quyền bầu cử, quyền ứng cử bất cử vào cơ quan, tổ chức nào. Có thể còn có những ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi khách thể của tội phạm này chỉ bao gồm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, nếu bầu cử hoặc ứng cử mà không liên quan đến quyền của công dân thì không phải là khách thể của tội phạm này như: Đảng viên Đảng cộng sản bầu cử hoặc ứng cử vào cấp uỷ các cấp, Đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh bầu cử hoăc ứng cử vào Ban chấp hành Đoàn các cấp.v.v...

Đối tượng tác động của tội phạm này khó xác định được cụ thể, không phải là lá phiếu hoặc danh sách bầu cử hoặc ứng cử, mà chính là tinh thần của con người, làm cho người bị lừa gạt, bị mua chuộc, bị cưỡng ép không thực hiện được quyền bầu cử, quyền ứng cử của mình.

3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan

Để thực hiện hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, người phạm tội có thể thực hiện một hoặc một số hành vi sau: 

Lừa gạt người khác. 

Lừa là cố ý làm cho người khác mắc sai lầm hoặc có ảo tưởng để nghe theo mình, có lợi cho mình và có hại cho họ.

Lừa gạt là lừa một cách quỷ quyệt để người khác tin, làm cho họ thực hiện không đúng quyền bầu cử hoặc quyền ứng cử của mình. Ví dụ: Bà  Hoàng Kim D muốn bỏ phiếu bầu ông Trần Văn H vào Hội đồng nhân dân tỉnh, nhưng Vũ Văn C đến nói dối với bà D là ông H đang bị Thanh tra tỉnh kiểm tra tài chính, vì ông H gây thất thoát cho cơ quan gần một tỷ đồng, sau khi nghe C nói vậy, bà D đã gạch tên ông H trong phiếu bầu.  Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, người phạm tội thực hiện hành vi gian dối đẻ lừa người khác bằng nhiều thủ đoạn khác nhau với mục đích làm cho người khác không thực hiện được hoặc không thực hiện đúng hoặc đầy đủ quyền bầu cử, quyền ứng cử của mình, chứ không chỉ có dùng thủ đoạn quỷ quyết. Do đó, khi xác định người phạm tội có hành vi lừa gạt chỉ cần xác định họ có hành vi gian dối là đủ mà không cần xác định động cơ của người phạm tội (có thể là lừa gạt, lừa bịp, lừa dối, lừa lọc, lừa phỉnh...)

Cần phân biệt lừa gạt với lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, là tội phạm xâm phạm quyền sở hữu quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Nhà làm luật dùng thuật ngữ lừa gạt cũng chính là để phân biệt với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản16  

Mua chuộc là dung tiền hoặc lợi ích vật chất, tinh thần để lôi kéo người khác theo ý mình làm chấp hành làm cho người khác không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng quyền bầu cử, quyền ứng cử của họ. Ví dụ: Đỗ Văn N vì sợ không trúng vào đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, nên đã sai thuộc hạ tổ chức mua chuộc các cử tri, bằng cách dùng tiền ngân sách chi bồi dưỡng để bỏ phiếu cho N. Hành vi mua chuộc để xâm phạm quyền bầu cử của công dân thường mua chuộc nhiều người, nhưng đối với quyền ứng cử thì thường mua chuộc một hoặc vài người. Ví dụ: Tại khu vực bỏ phiếu số 10, danh sách ứng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh là 5 người, trong đó có Nguyễn Văn Th là Giám đốc Sở giáo dục và chị Trần Kim D là Phó hiệu trưởng Trường Phổ thông trung học. Nguyễn Văn Th sợ mình không trúng cử, nên đã vận động chị D rút lui khỏi danh sách ứng cử và hứa sẽ bổ nhiệm chị D lên Hiệu trưởng.

Cưỡng ép là hành vi dùng quyền lực hăm doạ, dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ép buộc người khác không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền bầu cử, quyền ứng cử của họ. Ví dụ: Hoàng Công Th đã được Bùi Văn M mua chuộc nên đã đe doạ một số cử tri phải bỏ phiếu cho Bùi Văn M nếu không sẽ bị gây khó dễ trong việc mua bán ở chợ. Vì sợ, nên một số cử tri này đã phải bỏ phiếu cho Bùi Văn M. So với Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hành vi cưỡng ép là hành vi mới được quy định trong cấu thành tội phạm, nhưng không vì thế mà cho rằng nếu người phạm tội thực hiện hành vi này trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện thì không cấu thành tội phạm, mà hành vi cưỡng ép phải được coi là dùng thủ đoạn khác và người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền bẩu cử của công dân. Tuy nhiên, nếu là xâm phạm quyền ứng cử thì không phải là tội phạm vì hành vi xâm phạm quyền ứng cử mới được quy định là hành vi phạm tội. 

Thủ đoạn khác là những thủ đoạn không phải là lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép. Nhà làm luật quy định như vậy là có ý dự phòng những trường hợp không phải là lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép mà vẫn cản trở quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân thì vẫn là hành vi cấu thành tội phạm này. Ví dụ: Tại phòng bỏ phiếu, Nguyễn Văn X không trực tiếp lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép bất cứ cử tri cụ thể nào nhưng lại tuyên truyền, vận động mọi người tập trung bỏ phiếu cho ông Mai Văn D, bị những người có trách nhiệm nhắc nhở nhiều lần nhưng X không chấm dứt hành vi của mình.

b. Hậu quả của tội phạm 

Hậu quả của tội phạm này là những thiệt hại về quyền của con người được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, mà cụ thể là quyền bầu cử, quyền ứng cử bị xâm phạm.

Nếu người phạm tội do thực hiện những thủ đoạn như lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép hoặc thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân mà còn gây ra nhưng thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự hoặc về tài sản thì người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Ví dụ: Chị Đào Xuân L bị Nguyễn Văn H đe doạ nếu không rút ra khỏi danh sách ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện thì biết tay. Vì sợ H hành hung, nên chị L đã đề nghị Ban tổ chức bầu cử cho mình được rút ra khỏi danh sách ứng cử, nhưng ban tổ chức động viên chị không nên làm như vậy, chị L không rút ra khỏi danh sách ứng cử nên bị H hành hung gây thương tích có tỷ lệ thương tật là 21%. Ngoài hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công dân, Nguyễn Văn H còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.  

4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm

Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân được thực hiện do cố ý (cố ý phạm tội), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của người khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.

Nói chung, người phạm tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử thực hiện hành vi của mình do cố ý trực tiếp (hình thức lỗi cố ý thứ nhất), nhưng cũng có trường hợp người phạm tội chỉ nhận thức được hành vi là trái pháp luật, có thể thấy trước hậu quả của hành vi, không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xẩy ra (hình thức lỗi cố ý gián tiếp).

Nếu do không am hiểu pháp luật, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật mà vô tình tiếp tay cho người phạm tội, thì không phải là hành vi phạm tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân.  

Người phạm tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của người khác với nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn cản trở được người khác thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của họ. 

B. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật hình sự 

Là trường hợp xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 126 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. 

So với khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 126 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một trong hai hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ. Đây cũng là một trong rất ít trường hợp quy định mức cao nhất của khung hình phạt có một năm tù. Điều này, cho thấy chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội này chủ yếu lấy giáo dục là chính.

2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật hình sự

a. Phạm tội có tổ chức

Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau,vạch kế hoạch để thực hiện hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Người cầm đầu có thể là người có chức vụ, quyền hạn nhưng cũng chỉ có thể là người bình thường; nếu là người có chức vụ, quyền hạn và lại lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội thì còn thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội quy định tại điểm b khoản 2 của điều luật.     

b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân 

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó, có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ; nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dụng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. 

c. Gây hậu quả nghiêm trọng 

Xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân nên đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến của công dân, Nhà nước và xã hội. Cũng như đối với một số tội phạm khác, cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn thế nào là xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng căn cứ vào thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân gây ra:

- Lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của rất nhiều công dân (từ mười người trở lên);

- Do hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân mà làm kết quả bầu cử bị huỷ bỏ, phải tổ chức bầu cử lại;

- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên.

- Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định hậu quả khác là hậu quả nghiêm trọng như: Do lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân nên đã gây ra dư luận xấu trong nhân dân làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, gây mất an ninh chính trị và trật tự ở địa phương.

Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị phạt tù từ một năm đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới hoàn toàn nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 126 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự , không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới một năm tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì Toà án có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.

3. Hình phạt bổ sung

Theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Bộ luật hình sự, thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.

Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, Toà án cần xác định, nếu xét thấy để người phạm tội đảm nhiệm những chức vụ đó có thể gây nguy hại cho xã hội, thì mới áp dụng hình phạt này, không nên áp dụng tràn nan. Thông thường, chỉ áp dụng đối với trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân mới áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định.

So với Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 3 Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. 

---
Chú giải

16 Xem Đinh Văn Quế “ Bình luận Bộ luật hình sự. Phần riêng. Chương XIV. Các tội xâm phạm sở hữu” NXB .Tp Hồ Chí Minh. Năm 2001.

Nguồn: BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 - PHẦN CÁC TỘI PHẠM - Thạc sĩ Luật học Đinh Văn Quế, Tòa án Nhân dân tối cao.

No comments:

Post a Comment