18/08/2014
Phân tích tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác - Bình luận Bộ luật Hình sự 1999 - Tập 3
Điều 125. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác  

1. Người nào chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị  xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ một năm đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c)  Phạm tội nhiều lần;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.  

Định nghĩa: Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và vi tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, diện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Điều luật quy định tới sáu hành vi phạm tội khác nhau ( xâm phạm bí mật thư tín, xâm phạm bí mật điện thoại, xâm phạm bí mật điện tín, xâm phạm an toàn thư tín, xâm phạm an toàn điện thoại và xâm phạm an toàn điện tín), nhưng đều có cùng tính chất nên nhà làm luật quy định chung trong một điều luật. Tuy nhiên, cũng như đối với các tội phạm quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau, khi định tội cần chú ý:

- Nếu người phạm tội chỉ có một trong sáu hành vi nêu trên, thì người phạm tội thực hiện hành vi nào, định tội theo hành vi đó. Ví dụ: Chỉ có hành vi xâm phạm bí mật thư tín, thì định tội là “xâm phạm bí mật thư tín của người khác”, mà không định tội là “xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác” như điều luật đã ghi. 

- Nếu người phạm tội có hai, ba, bốn, năm hoặc cả sáu hành vi nêu trên thì khi định tội nêu tất cả các hành vi phạm tội, nhưng không dùng liên từ hoặc. Ví dụ: Người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm bí mật thư tín, xâm phạm bí mật điện thoại và xâm phạm an toàn thư tín, thì định tội là: “xâm phạm bí mật thư tín, bí mật điện thoại và an toàn thư tín của người khác”.

Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1999 có sửa đổi bổ sung nhiều so với Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985, thêm một số đối tượng bị xâm phạm như: telex, fax hoặc các văn bản khác được đưa truyền bằng phương tiện viễn thông và máy tính là dấu hiệu cấu thành tội phạm; đặc biệt quy định dấu hiệu đã bị xử lý kỷ luật hoặc đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội phạm; cấu tạo thêm khoản 2 với 5 tình tiết định khung tăng nặng; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên đối với tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, còn người dưới 16 tuổi không phải là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng.

Nói chung chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng trong một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Đối với những người này, thông thường phạm tội thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cá biệt có trường hợp vì động cơ cá nhân hoặc vụ lợi mà xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm 

Khách thể của tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, là quyền an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín của công dân, đây là một trong những quyền cơ bản của công dân. Quyền này được ghi nhận tại Điều 73 Hiến pháp năm 1992: “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được đảm bảo an toàn và bí mật... Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật”. Quyền an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tại Điều 7 (đảm bảo quyền bất khả xâm phạm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân); Điều 115 (Căn cứ khám thư tín); Điều 119 ( Thu giữ thư tín, điện tín); Điều 122 (Trách nhiệm bảo quản thư tín, điện tín bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong); Điều 123 ( Biên bản khám xét, thu giữ, tạm giữ thư tín, điện tín); Điều 124 (Trách nhiệm của người ra lệnh và thi hành lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ thư tín, điện tín).

Đối tượng tác động của tội phạm này là thư, điện báo, telex, fax, các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính.

Thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính bị xâm phạm là thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính của công dân ( cá nhân), chứ không phải của Nhà nước và tổ chức. Nếu thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính của Nhà nước hoặc tổ chức thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Ví dụ: Hành vi chiếm đoạt một công văn mật của cơ quan Nhà nước là hành vi phạm tội chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước quy định tại Điều 263 Bộ luật hình sự, nếu là tài liệu khác (không phải là tài liệu mật) là phạm tội chiếm đoạt tài liệu của cơ quan Nhà nước quy định tại Điều 268 Bộ luật hình sự.

Văn bản khác, ngoài thư, điện báo, telex, fax được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính cũng không phải là văn bản bất kỳ mà chỉ gồm các văn bản có nội dung, tính chất của thư tín, điện tín của người khác.

Người nước ngoài công tác và sinh sống ở Việt Nam nếu tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam mà bị xâm phạm bị mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín cũng được bảo hộ như công dân Việt Nam.

3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan

Người phạm tội có thể thực hiện hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính, hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín.

Chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính là làm cho thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính không đến với người nhận bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, lén lút, gian dối, bội tín, công nhiên... Cũng giống như hành vi chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu là lấy đi, nhưng tính chất chiếm đoạt ở đây khác chiếm đoạt tài sản ở chỗ, người phạm tội có thể lấy thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính cho mình, nhưng cũng có thể chỉ lấy rồi vứt đi, mà không chiếm hữu sử dụng.

Nếu chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính để dùng vào mục đích khác và hành vi dùng vào mục đính khác của người phạm tội lại cấu thành mọt tội phạm độc lập thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng nếu hành vi chiếm đoạt chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích. Ví dụ: Chiếm doạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính dùng vào mục đích làm gián điệp thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gián điệp quy định tại Điều 80 Bộ luật hình sự. Nếu chiếm đoạt thư của người khác, rồi bóc thư ra xem thấy có nội dung mà người phạm tội thấy có thể lừa dối người khác chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội vừa bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm bi mật, an toàn thư tín vừa bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đối với các văn bản mà người phạm tội chiếm đoạt không phải là văn bản được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính và không có nội dung, tính chất thư tín, điện tín, thì cũng không phải là hành vi phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, mà tuỳ trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng. Ví dụ: Một người đột nhập vào cơ quan để chiếm đoạt một tập tài liệu thì không phải là hành vi phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác mà phạm tội chiếm đoạt tài liệu của cơ quan Nhà nước quy định tại Điều 268 Bộ luật hình sự.

Hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại điện tín của người khác không phải là hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính. Hành vi này rất đa dạng được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Nghe trộm điện thoại; bóc và đọc trộm thư; tiêu huỷ thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính của người khác.v.v... Đối với hành vi này, khi xác định có phải là hành vi phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hay không cần phải đối chiếu với các quy định về bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của các cơ quan chức năng chuyên ngành như: Tổng cục biêu điện, Tổng công ty viễn thông...

Tuy không phải là hành vi, nhưng lại là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm này, đó là đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính, hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, mà còn vi phạm. So với tội phạm này quy định tại Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985, thì đây là dấu hiệu cấu thành tội phạm mới và là dấu hiệu làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi vi phạm hành chính.

Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm là  trước đó đã có lần xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, đã bị xử lý bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn  được xoá kỷ luật14, nay lại có hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác thì cũng không cấu thành tội phạm này.

Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, đã bị xử phạt hành chính bằng một trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính15, nay lại có hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác thì cũng không cấu thành tội phạm này.

b. Hậu quả

Hậu quả của tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho con người hoặc gây ra những thiệt hại về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những thiệt hại này có thể tính ra được bằng tiền, nhưng cũng có thể không tính ra được bằng tiền.

Hậu quả của hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, trước hết làm cho thư tín, điện thoại, điện tín không còn giữ được bí mật hoặc không đến được người nhận và do không giữ được bí mật hay không đến được người nhận nên có thể gây ra hậu quả khác về vật chất hoặc tinh thần cho người khác. Ví dụ: A ký hợp đồng vận chuyển hàng cho B, nhưng vì lý do khách quan, nên B phải thay đổi thời gian nhận hàng; B gửi điện báo cho A để A đừng chở hàng đến nữa, nhưng bức điện mà B gửi cho A lại lọt vào tay C. Vì sẵn có thù tức với B nên C đã chiếm đoạt bức điện đó. Do không nhận được điện của B nên A vẫn chở hàng cho B đúng như đã thoả thuận từ trước, gây thiệt hại cho B hàng trăm triệu đồng.

Hậu quả của tội phạm này chỉ là bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín bị xâm phạm, nên chỉ cần xác định thư tín, điện thoại, điện tín bị lộ, bị chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm là tội phạm đã hoàn thành, còn các hậu quả khác do thư tín, điện thoại, điện tín bị lộ, bị chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tình trạng xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín xảy ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm không đáng kể, nguyên nhân của tình trạng này thì có nhiều, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do ý thức pháp luật chưa cao, chỉ khi nào do hành vi xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín gây ra hậu quả nghiêm trọng khác thì người có hành vi xâm phạm mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.  

4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm

Tội xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác được thực hiện do cố ý (cố ý phạm tội), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.

Nói chung, người phạm tội xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín thực hiện hành vi của mình do cố ý trực tiếp (hình thức lỗi cố ý thứ nhất), nhưng cũng có trường hợp người phạm tội chỉ nhận thức được hành vi là trái pháp luật, có thể thấy trước hậu quả của hành vi, không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xẩy ra (hình thức lỗi cố ý gián tiếp). 

Người phạm tội xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác  có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn xâm phạm được thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Tuy nhiên, mức độ có khác nhau, có người chỉ mong xem trộm thư rồi dán lại, có người chiếm đoạt...

B. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự 

Là trường hợp xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. 

So với khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi trong các hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc áp dụng hình phạt tiền, chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ. Đây là một trong rất ít trường hợp không quy định hình phạt tù đối với người phạm tội, hình phạt cải tạo không giam giữ là loại hình phạt nặng nhất đối với người phạm tội này. Điều này, cho thấy chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội này chủ yếu lấy giáo dục là chính; sau khi đã bị xử phạt hành chính mà họ vẫn còn vi phạm thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng ngay cả khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng không áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với họ. 

2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự

a. Phạm tội có tổ chức

Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau,vạch kế hoạch để thực hiện hành vi xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.    

b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác  

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó, có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ; nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc chiếm đoạt thư, điện báo, telex. fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để phạm tội thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng định khung. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này. 

c. Phạm tội nhiều lần

Là trường hợp xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác từ hai lần trở lên và mỗi lần xâm phạm đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác từ hai lần trở lên, nhưng chưa có lần nào bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính thì hành vi xâm phạm chưa cấu thành tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu có hai lần xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, trong đó có một lần đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính thì hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác mới cấu thành tội phạm và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự, chứ không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. 

d. Gây hậu quả nghiêm trọng 

Xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác nên đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc những thiệt hại khác cho xã hội. Mặc dù cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn thế nào là xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng căn cứ vào thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng:

- Gây chết người. Ví dụ: Nhận được điện thoại cấp cứu nhưng không báo cho người có trách nhiệm cấp cứu dẫn đến người không được cấp cứu chết. 

- Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ 41% trở;

- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên.

- Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định hậu quả khác là hậu quả nghiêm trọng như: Do chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính, nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh, đến việc điều động nhân lực trong việc phòng chống thiên tai, dịch bệnh...

đ. Tái phạm

Là trường hợp người phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác thuộc trường hợp tái phạm.

Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 49 Bộ luật hình sự thì, tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. So với Bộ luật hình sự năm 1985, thì khái niệm tái phạm quy định ở Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm khác nhau.

Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: "đã bị phạt tù về tội do cố ý" thì Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định: "đã bị kết án" không phân biệt người phạm tội có bị phạt tù hay không, phạm tội do cố ý hay do vô ý.

Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: "lại phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội ít nghiêm trọng do cố ý" thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý". Như vậy, nếu lại phạm tội nghiêm trọng do vô ý thì không bị coi là tái phạm. Quy định này phù hợp với việc phân loại tội phạm tại  khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999. 

Khái niệm về tái phạm theo Bộ luật hình sự năm 1999 có những đặc điểm sau:

- Tội phạm đã bị kết án là một tội phạm bất kỳ được quy định trong Bộ luật hình sự, không nhất thiết phải là tội cùng loại, cùng tính chất với tội đang bị xét xử, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, tội đó được thực hiện do vô ý hay do cố ý.

- Người phạm tội đã bị kết án là đã bị Toà án của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Toà án của các nước khác mà giữa hai nước: Việt Nam với nước đó có hiệp định về tư pháp. 

- Tội phạm mà người phạm tội trước đó đã bị kết án, không phân biệt họ bị áp dụng hình phạt gì trong hệ thống hình phạt, kể cả trường hợp họ được miễn hình phạt, vì miễn hình phạt cũng là bị kết án về một tội phạm nào đó nhưng vì họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Quy định này hoàn toàn khác với Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định người phạm tội đã bị phạt tù còn các loại hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ thì không tính để coi lần phạm tội sau là tái phạm. Cũng do quy định như vậy nên về lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử không lý giải được trường hợp một người bị kết án tử hình nhưng trong thời gian bản án tử hình chưa được thi hành thì họ phạm tội mới, vậy có tính để coi lần phạm tội sau khi đã bị kết án tử hình là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm không? Bộ luật hình sự năm 1999 đã khắc phục và quy định: "đã bị kết án" là chính xác, khoa học hơn.

- Chưa được xoá án tích là chưa đủ những điều kiện theo quy định tại chương IX của Bộ luật hình sự từ Điều 63 đến Điều 67 Bộ luật hình sự về xoá án tích.

- Tội mới mà người phạm tội thực hiện phải là tội do cố ý (không phân biệt tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) hoặc tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Quy định này cũng khác với Bộ luật hình sự năm 1985 ở chỗ: Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội mới mà người phạm tội thực hiện là tội nghiêm trọng do vô ý, nay Bộ luật hình sự năm 1999 chia tội phạm ra làm 4 loại thì tội mới mà người phạm tội thực hiện là tội nghiêm trọng do vô ý thì không bị coi là tái phạm.

- Nếu án đã tuyên đối với người phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm ( khoản 6 Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999).    

Điều luật chỉ quy định tái phạm mà không quy định tái phạm nguy hiểm. Đây cũng là một vấn có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự, vì điểm đ khoản 2 Điều 125 chỉ quy định tái phạm. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự, vì tái phạm còn bị truy cứu theo khoản 2 huống hồ tái phạm nguy hiểm. Tương tự như vậy, người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của Điều 125 Bộ luật hình sự. Để khắc phục tình trạng hiểu khác nhau về pháp luật, theo chúng tôi điểm d cần sửa đổi theo hướng “Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” và điểm đ sửa đổi theo hướng “tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”. 

Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ từ một năm đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới hoàn toàn nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật hình sự và có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ thì Toà án có thể áp dụng hình phạt tù đối với họ; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì Toà án có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.

3. Hình phạt bổ sung

Theo quy định tại khoản 3 Điều 125 Bộ luật hình sự, thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.

Khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này cần chú ý:

- Chỉ áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung khi không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người phạm tội; bởi lẽ, theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình sự thì phạt tiền là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.

- Mức tiền phạt từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng được coi là khung hình phạt, do đó nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giám nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới hai triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng. Tuy nhiên, tại điểm e Mục 10 Nghị quyết số 01/2000/HĐTP ngày 4-8-2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: “việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự chỉ áp dụng đối với các hình phạt chính mà không áp dụng đối với hình phạt bổ sung, bởi vì đối với hình phạt bổ sung không thể có nhiều khung hình phạt, không có khung hình phạt nhẹ nhất và không quy định việc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”. Quy định này chỉ phù hợp với các loại hình phạt bổ sung khác, mà không phù hợp với loại hình phạt tiền, vì trong Bộ luật hình sự quy định rất nhiều mức phạt tiền khác nhau tuỳ thuộc vào từng tội phạm cụ thể trong một điều luật cụ thể. Hy vọng rằng Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét và sửa đổi Nghị quyết trên cho phù hợp với Bộ luật hình sự.

Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, Toà án cần xác định, nếu xét thấy để người phạm tội đảm nhiệm những chức vụ đó có thể gây nguy hại cho xã hội, thì mới áp dụng hình phạt này, không nên áp dụng tràn nan. Thông thường, chỉ áp dụng đối với trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác mới áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định.

So với Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 3 Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý. Tuy nhiên, đối với hình phạt tiền lại là hình phạt mới nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi.

---
Chú giải

14 Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về xử lý lỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức thì: “ Kể từ ngày có quyết dịnh kỷ luật sau 12 tháng nếu công chức không tái phạm và không có những vi phạm dến mức phải xử lý kỷ luật thì cơ quan, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hiệu lực kỷ luật”

15 Theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, thì thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chínToà án được tính như sau:

- Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu quá một năm, kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết hiệu lực thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm, thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

- Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác, nếu quá hai năm kể từ ngày thi hành xong quyết định xử lý, nếu có tiến bộ thực sự, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú xác nhận, thì được coi như chưa bị áp dụng biện pháp đó.

Nguồn: BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 - PHẦN CÁC TỘI PHẠM - Thạc sĩ Luật học Đinh Văn Quế, Tòa án Nhân dân tối cao.

No comments:

Post a Comment