Điều 127. Tội làm sai lệch kết quả bầu cử
1. Người nào có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Định nghĩa: Tội làm sai lệch kết quả bầu cử là hành vi của người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử đã giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác làm sai lệch kết quả bầu cử
Nếu căn cứ vào hình thức thì quy định tại Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm mới, nhưng căn cứ vào nội dung thì tội phạm này không phải là tội phạm mới mà nó đã được quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985. Nội dung của các dấu hiệu cấu thành tội phạm không có gì thay đổi. Tuy nhiên, Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1999 có sửa đổi bổ sung, cấu tạo thành hai khoản, khoản 2 quy định các tình tiết tăng nặng là yếu tố định khung hình phạt.
Ngoài những sửa đổi bổ sung đã nếu trên, Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên đối với tội làm sai lệch kết quả bầu cử chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, còn người dưới 16 tuổi không phải là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng.
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, đối với những người khác, có thể là chủ thể trong trường hợp có đồng phạm.
Người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử là người được giao nhiệm vụ tổ chức việc bầu cử như: Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng bầu cử; Trưởng ban, Phó trưởng ban giám sát bầu cử; uỷ viên Uỷ ban bầu cử; nhân viên giúp việc trong ban bầu cử, tổ bầu cử... Nói chung, những người được giao nhiệm vụ trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử và do có trách nhiệm này nên mới làm sai lệch được kết quả bầu cử.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Đây là vấn đề khá phức tạp và có nhiều ý kiến khác nhau về khách thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử. Nếu là khách thể loại, thì ai cũng hiểu được rằng đó là quyền tự do dân chủ của công dân, nhưng khách thể trực tiếp của tội phạm này là gì, thì đúng là có vấn đề cần trao đổi. Nếu trước đây, hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử được quy định chung trong cùng một điều luật với tên gọi là xâm phạm quyền bầu cử của công dân (Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985) thì việc xác định khách thể không có gì phức tạp, nay hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử lại quy định thành tội danh độc lập, vậy khách thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử có còn là quyền bầu cử của công dân nữa hay không? Cũng có ý kiến cho rằng, khách thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử không phải là quyền bầu cử hoặc quyền ứng cửa của công dân nữa, vì hai quyền này công dân đã được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử là hành vi xâm phạm đến sự quản lý của cơ quan tổ chức bầu cử và theo ý kiến này, thì tội làm sai lệch kết quả bầu cử phải được quy định ở chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính ( Chương XX) mới đúng.
Có thể vấn đề xác định khách thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử còn những ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi việc xác định khách thể của tội phạm chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận và có ý nghĩa trực tiếp đối với việc cơ cấu Bộ luật hình sự trong quá trình soạn thảo, thông qua, mà không làm thay đổi đặc điểm của tội phạm cũng như các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm này. Tuy nhiên, qua nghiên cứu hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử gây ra, chúng tôi thấy khách thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử cũng chính là quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân, bởi lẽ, suy cho đến cùng thì hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử đã gián tiếp xâm phạm đến quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân. Ví dụ: Việc sửa chữa phiếu bầu đã làm cho giá trị của phiếu bầu đó không còn đúng với kết quả ban đầu mà công dân đã lựa chọn. Cũng tương tự như đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân quy định tại Điều 126 Bộ luật hình sự, quyền này được ghi nhận tại Điều 54 Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hoá bởi những quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bẩu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cũng như các quy định cụ thể về việc tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Đối tượng tác động của tội phạm này là kết quả bầu cử, kết quả này có thể được ghi nhận trong một biên bản, một báo cáo, một danh sách hoặc được lưu trong máy tính...
3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Để thực hiện hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử, người phạm tội có thể thực hiện một hoặc một số hành vi sau:
- Giả mạo giấy tờ để làm sai lệch kết quả bầu cử là hành vi làm phiếu bầu cử giả hoặc dùng phiếu bầu cử giả, sửa chữa kết quả bầu cử trên các phiếu bầu, thêm hoặc bớt phiếu bầu cử với mục đích làm sai lệch kết quả bầu cử theo ý mình. Ví dụ: Tần Văn K là Trưởng ban kiểm phiếu kết quả bầu cử Hội đồng nhân dân huyện T.H đã sửa chữa kết quả bầu cử trong biên bản kiểm phiếu để bà Trần Thị Hồng H không trúng cử, vì giữa bà H với K có mâu thuẫn.
- Gian lận phiếu để làm sai lệch kết quả bầu cử là hành vi dối trá trong việc thêm, bớt phiếu bầu đẫn đến kết quả bầu cử không chính xác như: Thêm phiếu trúng cử cho người mà mình quan tâm hoặc bớt phiếu trúng cử đối với người mà mình không muốn trúng cử. Ví dụ: Hồ Anh D là thành viên trong Ban kiểm phiếu vì không muốn cho ông Võ Thành L trúng cử nên đã rút bớt phiếu trúng cử của ông Võ Thành L trước khi bắt đầu kiểm phiếu.
- Dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử là hành vi ngoài hành vi giả mạo giấy tờ hoặc gian lận phiếu nhưng cũng làm sai lệch kết qủa bầu cử. Đây là quy định mở, nhằm đề phòng những trường hợp không phải là giả mạo giấy tờ hoặc gian lần phiếu bầu nhưng vẫn làm sai lệch kết quả bầu cử. Do kỹ thuật lập pháp của nước ta nên không chỉ có tội phạm này nhà làm luật mới quy định thủ đoạn khác mà trong nhiều điều luật của Bộ luật hình sự chúng ta cũng thấy cách quy định này. Nếu để cho ngắn gọn thì chỉ cần quy định: “Người nào có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử mà có thủ đoạn làm sai lệch kết quả bầu cử” là đủ, mà không cần phải quy định giả mạo giấy tờ hoặc gian lận phiếu. Tuy nhiên, nếu chỉ quy định như vậy thì lại quá chung chung, không phổ thông, nhất là việc giải thích chính thức các luật ở nước ta chưa có điều kiện thực hiện. Mặt khác, khi quy định các dấu hiệu đặc trưng của từng tội phạm cũng cần phải nêu được một số dấu hiệu đặc trưng để phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác.
Thủ đoạn khác làm sai lệch kết quả bầu cử, trong thực tế xảy ra rất đa dạng như: mua chuộc, dụ dỗ, cưỡng ép... người có trách nhiệm trong việc tổ chức giám sát việc bầu cử để những người này thực hiện hành vi giả mạo giấy tờ hoặc gian lận phiếu bầu để làm sai lệch kết quả bầu cử.
b. Hậu quả
Hậu quả của tội làm sai lệch kết quả bầu cử là những thiệt hại do hành vi giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác gây ra, mà trước hết là kết quả bầu cử bị sai lệch, không đúng với kết quả thực. Ngoài ra, còn gây ra những thiệt hại khác về vật chất hoặc phi vật chất.
Theo quy định của điều văn của điều luật, thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm này, vì chỉ cần người phạm tội đã có hành vi giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử là tội phạm đã hoàn thành. Việc kết quả bầu cử có bị làm sai lệch hay không chỉ có ý nghĩa đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, nếu kết quả bầu cử không bị làm sai lệch thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng có thể không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Trường hợp kết quả bầu cử tuy không bị sai lệch, nhưng phạm tội có tổ chức, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều mặt đến quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân thì người phạm tội vần bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
Tội làm sai lệch kết quả bầu cử thực hiện do cố ý (cố ý phạm tội), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.
Nói chung, người phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử thực hiện hành vi của mình do cố ý trực tiếp (hình thức lỗi cố ý thứ nhất), nhưng cũng có trường hợp người phạm tội chỉ nhận thức được hành vi là trái pháp luật, có thể thấy trước hậu quả của hành vi, không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xẩy ra (hình thức lỗi cố ý gián tiếp).
Người phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn hoặc bỏ mặc kết quả bầu cử bị làm sai lệch. Tuy nhiên, mức độ có khác nhau, có người mong sai lệch nhiều có người chỉ mong sai lệch một phiếu để người mà mình quan tâm trúng cử.
B. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 127 Bộ luật hình sự
Là trường hợp làm sai lệch kết quả bầu cử không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 127 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
So với khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý. Tuy nhiên, nếu Toà án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì chỉ được không quá một năm, vì khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội phạm này là đến một năm.
Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 127 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ.
2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 127 Bộ luật hình sự
a. Phạm tội có tổ chức
Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, làm sai lệch kết quả bầu cử có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau,vạch kế hoạch để thực hiện hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Làm sai lệch kết quả bầu cử có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Người cầm đầu có thể là người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, nhưng cũng có thể là người không có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử mà có thể chỉ là người có chức vụ, quyền hạn hoặc không có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên đối với người thực hành nhất thiết phải là người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử.
Do đặc điểm của tội phạm này nên hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử thường được thực hiện có tổ chức, vì muốn làm lai lệch kết quả bầu cử nếu chỉ do một người thực hiện thì rất khó, mà phải do nhiều người, có sự phân công, nếu không, rất dễ bị phát hiện.
b. Gây hậu quả nghiêm trọng
Làm sai lệch kết quả bầu cử gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác nên đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội hoặc lợi ích chính đáng của công dân. Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn thế nào là làm sai lệch kết quả bầu cử gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng căn cứ vào thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng do hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử gây ra:
- Làm sai lệch kết quả bầu cử dẫn đến kết quả bầu cử bị huỷ bỏ, phải tổ chức bầu cử lại;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên.
- Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định hậu quả khác là hậu quả nghiêm trọng như: Gây ra dư luận xấu trong nhân dân làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, gây mất an ninh chính trị và trật tự ở địa phương.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 127 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị phạt tù từ một năm đến ba năm, cũng là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới hoàn toàn nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 127 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 127 Bộ luật hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự , không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể phạt người phạm tội dưới một năm tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì Toà án có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.
3. Hình phạt bổ sung
Theo quy định tại khoản 3 Điều 127 Bộ luật hình sự, thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử, Toà án cần xác định, nếu xét thấy để người phạm tội đảm nhiệm những chức vụ đó có thể gây nguy hại cho xã hội, thì mới áp dụng hình phạt này, không nên áp dụng tràn nan. Thông thường, chỉ áp dụng đối với trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm sai lệch kết quả bầu cử mới áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định.
So với Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 3 Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
Nguồn: BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 - PHẦN CÁC TỘI PHẠM - Thạc sĩ Luật học Đinh Văn Quế, Tòa án Nhân dân tối cao.
No comments:
Post a Comment