30/06/2014
Tính chất đẳng cấp và đặc quyền của pháp luật phong kiến - Bài tập cá nhân Lý luận Nhà nước và pháp luật
Bài tập Lý luận Nhà nước và pháp luật có đáp án.

"Pháp luật phong kiến là hệ thống các quy phạm pháp luật (các quy tắc) do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), trực tiếp thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến; là phương tiện chủ yếu và hữu hiệu nhất để điều chỉnh các quan hệ cơ bản giữa người với người cũng như những nhu cầu, lợi ích khác nhau trong xã hội phong kiến”(1). Pháp luật phong kiến ra đời cùng với nhà nước phong kiến trong cuộc cách mạng của giai cấp địa chủ phong kiến tiến hành để xoá bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ, thiết lập chế độ phong kiến. Tồn tại và phát triển khá lâu dài trong một xã hội đầy biến động và phức tap, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc của các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức của xã hội, pháp luật phong kiến mang những đặc điểm:

- Pháp luật phong kiến phân chia xã hội phong kiến thành những đẳng cấp khác nhau và quy định cho mỗi đẳng cấp những đặc quyền khác nhau

- Pháp luật phong kiến dung túng việc sử dụng bạo lực và sự tuỳ tiện của địa chủ phong kiến đối với nông dân và những người lao động khác trong xã hội.

- Pháp luật phong kiến rất hà khắc, dã man.

- Pháp luật phong kiến có nhiều quy định mang tính chất tôn giáo và đạo đức phong kiến.

Sau đây em xin trình bày đặc điểm thứ nhất của pháp luật phong kiến: Pháp luật phong kiến là pháp luật đẳng cấp và đặc quyền.


Tính đẳng cấp: Theo quy định của pháp luật phong kiến thì xã hội phong kiến đươc phân chia thành nhiều đẳng cấp khác nhau, thậm chí trong một tổ chức, một gia đình, một cộng đồng cũng có sự phân biệt về thứ bậc, phẩm trật. Việc phân chia xã hội thành nhiều đẳng cấp khác nhau có tác dụng để tạo ra tôn ti trật tự giữa các thành viên trong gia đình, giữa người sang kẻ hèn trong xã hội và giữa vua tôi quân thần trong quốc gia. Mỗi đẳng cấp, mỗi thứ bậc có địa vị xã hội khác nhau và có địa vị pháp lý khác nhau. Chế độ đẳng cấp cũng được áp dụng trong các tổ chức tôn giáo và được nhà nước bảo hộ. Những người giữ các chức sắc tôn giáo thực chất cũng là các địa chủ lớn, nhỏ theo thang bậc đẳng cấp phong kiến. Khi xem xét kết cấu xã hội của nước Đức thế kỉ XVI, Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Toàn bộ xã hội bao gồm vương công, quan lại, quí tộc, linh mục, quí tộc thành thị và thị dân đều đè nặng lên vai nông dân”(2)

Tính đặc quyền: Pháp luật phong kiến công khai tuyên bố cho mỗi đẳng cấp có những đặc quyền riêng. Đặc quyền của các đẳng cấp phụ thuộc vào chức tước, danh vị, xuất thân, thậm chí cả tôn giáo mà họ theo

Trong xã hội phong kiến, vua có toàn quyền; chúa, địa chủ lớn, tăng lữ có rất nhiều quyền (chúa phong kiến có quyền xét xử nông dân, đặt ra luật lệ, quyền thu thuế, quyền tịch thu tài sản của nông dân). Ở châu Âu thời kì Phục hưng, lãnh chúa có rất nhiều quyền, hắn không những định đoạt một cách tuỳ tiện tài sản của nông dân mà cả thân thể họ, thân thể vợ con họ nữa (quyền sơ dạ). Bất kì lúc nào muốn là lãnh chúa có thể đánh người nông dân đến chết hoặc ra lệnh chặt đầu họ nếu hắn muốn. “Như vậy, một mình tên địa chủ vừa là nhà làm luật, vừa là quan toà, vừa là người thi hành bản án, là vị chúa tể có toàn quyền ở trang ấp của mình”.(3) Tầng lớp thị dân và những người khác có một ít quyền còn nông dân thì hầu như không có quyền gì đáng kể. Bổng lộc, diện tích đất được phân công cũng theo đẳng cấp.

Tính đặc quyền của pháp luật phong kiến còn thể hiên ở việc qui định sự trừng phạt khác nhau căn cứ vào đẳng cấp, thứ bậc của người phạm tội và người bị hại trong xã hội. Ví dụ, Bộ luật Hồng Đức quy định 8 hạng người có thể được giảm hoặc miễn tội khi phạm tội, chủ yếu đó là những người thuộc hoàng tộc hoặc những người có chức vụ cao trong xã hội. Xâm hại tới vua chúa, quan lại, những người có địa vị trong xã hội, thậm chí chỉ là những người thân của họ thì đều bị trừng trị rất nặng. Tất cả mọi sự phản kháng chống lại chính quyền của vua đều bị tội chết. Pháp luật Trung Quốc qui những tội này vào hàng “thập ác”, truy cứu trách nhiệm hình sự tập thể dưới hình thức “chu di tam tộc”. Bên cạnh đó, những hành vi xâm hại tới thường dân thường chỉ bị xử phạt rất nhẹ. Ở một số nước hồi giáo còn qui định nếu giết người không theo đạo hồi hoặc giết phụ nữ thì mức phạt thấp hơn sơ với các trường hợp khác. 

Pháp luật phong kiến cũng qui định cùng một hành vi phạm tội, nếu người phạm tội có địa vị cao trong xã hội thì hình phạt rất thấp, thậm chí có thể dùng tiền để chuộc tội kể cả tội giết người và cố ý gây thương tích. Người thân (vợ, con…) của những người có chức vụ, quyền hạn mà phạm tội cũng được giảm hình phạt theo quan phẩm của vợ (chồng). cha (mẹ) họ.

Tính chất đặc quyền và sự bất bình đẳng của pháp luật phong kiến đã được phản ánh trong câu ngạn ngữ Trung Quốc: “Lễ nghi không tới thứ dân, hình phạt không tới trượng phu”
     
Tóm laị, có thể nói tính đẳng cấp và đặc quyền là tính chất đặc trưng của pháp luật phong kiến, thể hiện mạnh mẽ ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến, qui định, củng cố sự thống trị của địa chủ phong kiến đối với nông dân. Pháp luật phong kiến ra đời là công cụ chuyên chính trong tay giai cấp địa chủ phong kiến. Nó ghi nhận sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp khác nhau trong xã hội, sự phụ thuộc của người nông dân vào địa chủ, nó bảo vệ các hình thức áp bức, bóc lột của địa chủ phong kiến đối với nông dân và những người lao động khác.

Chú thích:

(1) TS. Nguyễn Văn Động, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB Giáo dục, Hà Nội 2008, trang 224
(2) C.Mác – Ăngghen, Tuyển tập, Tập II, NXB Sự thật, Hà Nội 1981, trang 200-201
(3) Mác – Ăngghen, Toàn tập, Tập 21, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 1995, trang 361

Danh mục tài liệu tham khảo:

1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp Luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2009
2. Khoa Luật – ĐHQGHN, Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật,  NXB ĐHQG Hà Nội
3. Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Thị Hồi, Lê Vương Long (chủ biên), Những nội dung cơ bản của môn học Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB GTVT, Hà Nội 2008
4. TS. Nguyễn Văn Động, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, NXB Giáo dục, Hà Nội 2008

5. TS. Trần Thái Dương, Hỏi đáp những tri thức cơ bản môn Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội 2004

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hà - K34 ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment