Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của các cơ sở kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung ngày 03 tháng 6 năm 2008 Quốc hội thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Vậy cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 là do dâu? Sau đây nhóm chúng em xin làm rõ hơn về đề tài này để thấy được vai trò quan trọng của sự ra đời Luật thuế thu nhập doanh nghiệp trong xã hội.
Trong quá trình tìm hiểu và làm bài tập, vì sự hạn chế trong kiến thức không tránh khỏi những sai sót, mong thầy cô thông cảm.
Nội dung
1. Khái quát Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
Hai hình thức sơ khai của thuế thu nhập doanh nghiệp là Thuế lãi doanh nghiệp, Thuế lợi tức tổng hợp do Nhà Thuế trực thu Việt Nam thi hành và kiểm soát. Từ năm 1975 đến năm 1986, nền kinh tế cả nước được vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Nhà nước thực hiện chế độ quản lý kinh tế toàn diện đối với các xí nghiệp thông qua việc giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh bằng các chỉ tiêu Pháp lệnh. Các xí nghiệp quốc doanh trong giai đoạn này không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vì tất cả hàng hóa của họ sản xuất ra được nộp cho Nhà nước và được phân phối lại, tập trung hoàn toàn cho công cuộc kháng chiến. Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, nhà nước kiểm soát nền kinh tế bằng luật pháp. Cùng với công cuộc cải cách thuế bước I năm 1990, Luật thuế lợi tức đã được ban hành. Tuy nhiên qua 8 năm thực hiện, Luật thuế lợi tức dần dần bộc lộ nhiều nhược điểm và không còn phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới: giai đoạn mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã được ban hành nhằm đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Luật thuế thuế thu nhập doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam số 03/1997/QH9 được Quốc hội thông qua ngày 10/05/1997. Chính phủ ban hành Nghị định 30/1998/NĐ-CP ngày 13/05/1998 quy định chi tiết thi hành luật thuế Thu nhập doanh nghiệp. Năm 2003, Quốc hội ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 09/2003/QH11 ngày 17/6/2003. Nghị định 24/2007/NĐ-CP ngày 14/2/2007 thay thế Nghị định số 164/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định 152/2004/NĐ-CP ngày 6/8/2004 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 164/NĐ-CP.
Qua các lần sửa đổi, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ngày càng trở nên có hiệu quả và thu được nhiều thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm còn tồn tại. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày 03/6/2008, Quốc hội nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
2. Cở sở lý luận của việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008
2.1 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X về chính sách cơ bản trong vấn đề về thuế
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh”.
2.2 Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 của Chính phủ
Quyết định số 201/2004/QĐ- TTg ngày 06/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã xác định: “hoàn thiện theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh.”
Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, đặt ra yêu cầu việc sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp lần này cần đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu sau đây: Một là, tiếp tục tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; thực hiện giảm mức thuế suất chung để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hai là, cải cách ưu đãi thuế nhằm tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ít ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước trong giai đoạn sắp tới trên cơ sở thu hẹp diện ưu đãi theo ngành, lĩnh vực. Ba là, việc sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp tuy có tác động giảm thu ngân sách nhà nước trong vài năm đầu nhưng phải đảm bảo ổn định và tăng trưởng nguồn thu ngân sách nhà nước trong trung và dài hạn.
2.3 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến cam kết quốc tế
Việc gia nhập WTO thúc đẩy Chính phủ Việt Nam phải nỗ lực trong việc cải cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Và trong hoàn cảnh như thế Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành phải phù hợp với các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến cam kết quốc tế. Điều đó không những tạo điều kiện mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới để nhằm phát triển kinh tế trong nước và thể hiện sự hòa bình, hữu nghị và thỏa thuận hợp tác cùng có lợi của các bên tham gia. Các quy định trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến cam kết quốc tế để tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện luật và sự mâu thuẫn trong vấn đề giải quyết việc chấp hành thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.4 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các qui định pháp luật khác
Sự ra đời của Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 dẫn tới sự thay đổi về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, theo đó các đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh mà theo qui định của luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nữa mà chuyển sang nộp thuế thu nhập cá nhân. Luật quản lý thuế 2007 cũng qui định rõ các nội dung về đăng kí thuế, kê khai, nộp thuế, thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm của thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 cần phù hợp với những qui định của hai luật trên.
3. Cơ sở thực tiễn của việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008
3.1 Những kết quả đạt được của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003
3.1.1 Góp phần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn và đảm bảo bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004 đã bỏ thuế thu nhập doang nghiệp bổ sung đối với doanh nghiệp trong nước và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thực hiện một mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 28% thống nhất đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông từ 32% xuống 28% và bãi bỏ thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với các doanh nghiệp đầu tư trong nước tuy làm giảm đáng kể nghĩa vụ đóng góp của nhiều doanh nghiệp nhưng đã có tác động khuyến khích kinh doanh và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tăng tích luỹ, tích tụ, trên cơ sở đó có thêm nguồn lực để tăng đầu tư vào nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Cùng với việc gia tăng số lượng doanh nghiệp mới thành lập, nhiều doanh nghiệp đang hoạt động cũng thực hiện đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực kinh doanh, tạo thêm việc làm cho xã hội. Vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 29,7% năm 2003 lên 30,9% năm 2004 và đạt 32,2% năm 2005.
Đối với đầu tư nước ngoài, mặc dù mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tăng từ 25% lên 28% nhưng do không phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đồng thời với chính sách thống nhất và bình đẳng nên môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn hơn nhiều so với trước. Vì vậy, từ năm 2004 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên: năm 2004 là 4,6 tỷ USD, năm 2005 là 5,8 tỷ USD, năm 2006 là 10,2 tỷ USD, năm 2007 vốn đăng ký dự kiến đạt trên 20 tỷ USD, trong đó công nghiệp là lĩnh vực thu hút lượng vốn lớn nhất (năm 2007 chiếm khoảng 50% vốn đăng ký).
- Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) năm 2003 đã thống nhất áp dụng mức ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Trước khi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) 2003 có hiệu lực thi hành, doanh nghiệp trong nước áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) 2003 đã thống nhất điều kiện, mức ưu đãi, thời gian ưu đãi đối với cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng lựa chọn mức ưu đãi cao nhất, thuận lợi nhất của Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm thu hút vốn đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn theo định hướng của nhà nước.
Việc quy định nghĩa vụ thuế và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng thống nhất cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vừa tạo ra sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế cho tất cả các nhà đầu tư, vừa tạo dựng được môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và là một bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 về cơ bản đã đáp ứng được mục tiêu cải thiện môi trường kinh doanh và góp phần thu hút vốn đầu tư. Nếu tỉ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so GDP năm 2003 đạt 35,5% thì năm 2004 đạt 36,2%, năm 2005 đạt 39,8%, năm 2006 đạt 40,9% và dự kiến 2007 khoảng 40,4%.
3.1.2 Góp phần đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước
Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Từ năm 2004 đến năm 2007, mặc dù có sự điều chỉnh giảm mức động viên thuế suất từ 32% xuống còn 28% nhưng số thu thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm vẫn đảm bảo tăng trưởng là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Số lượng doanh nghiệp, quy mô đầu tư đều tăng do môi trường đầu tư hấp dẫn (Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được sửa đổi đã tạo môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn hơn).
- Cùng với việc giảm thuế suất, các quy định về căn cứ tính thuế được quy định rõ ràng, minh bạch hơn trước đã tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp tự giác hạch toán, kê khai đầy đủ rõ ràng.
- Các quy định về xử phạt, cũng như các biện pháp chế tài đã từng bước hoàn thiện, góp phần tạo điều kiện cho cơ quan thuế tăng cường kiểm tra giám sát, cũng như chống thất thu cho ngân sách nhà nước.
Theo số liệu thống kê, số thu thuế ngân sách nhà nước (không kể thu thuế thu nhập doanh nghiệp từ dầu khí) vẫn tiếp tục tăng qua các năm: năm 2003 thu 21.147 tỷ đồng; năm 2004 thu 24.201 tỷ đồng; năm 2005 thu 28.729 tỷ đồng; năm 2006 thu 33.663 tỷ đồng; năm 2007 thu 39.469 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm gần 17% (tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế). Số liệu chi tiết như sau:
Tóm lại, trong điều kiện nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm dần, sự ổn định về nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp cùng với các nguồn thu quan trọng khác đã góp phần bảo đảm số thu cho ngân sách nhà nước nên giữ vững khả năng tự lực của ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.3 Góp phần cải cách hành chính trong quản lý thuế
Thực tiễn công tác quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 cho thấy bước đầu đã có sự chuyển biến tích cực, thể hiện trên các mặt sau đây:
- Trước đây cơ quan thuế tính thuế, ra thông báo thuế cho doanh nghiệp để doanh nghiệp thực hiện nộp thuế theo thông báo thuế. Nay chuyển đổi sang cơ chế doanh nghiệp tự khai, tự tính, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Việc thực hiện cơ chế này đã giảm bớt được thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong việc kê khai, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Việc chuyển cơ chế này đã tạo điều kiện cho cơ quan thuế tập trung nguồn lực phục vụ cho công tác tuyên truyền, hỗ trợ và kiểm tra giám sát doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật về thuế.
- Giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong việc tự xác định các điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp mà không cần cấp Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, xoá bỏ cơ chế “xin, cho” nên đã tạo một bước tiến lớn trong cải cách quản lý hành chính về đầu tư và thuế theo hướng rõ ràng, minh bạch giữa quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp với trách nhiệm của Nhà nước.
3.2 Những tồn tại, hạn chế của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003
3.2.1 Về căn cứ tính thuế
Như đã nêu ở phần trên, về cơ bản các quy định về căn cứ tính thuế tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 đã được quy định rõ ràng, minh bạch hơn, đồng thời cũng cho phép doanh nghiệp được căn cứ vào tình hình thực tế của mình để quyết định chi và hạch toán chi phí hợp lý cho phù hợp tình hình cụ thể của doanh nghiệp như: cho phép tự ban hành các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, khấu hao nhanh tài sản cố định không quá hai lần theo quy định, chi phí trả lãi vay các tổ chức khác ngoài ngân hàng, tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế không quá 1,2 lần theo lãi vay của ngân hàng thương mại tại thời điểm vay, nâng tỷ lệ khống chế chi phí quảng cáo, tiếp thị từ 3%, 5%, 7% lên 10%... Một số quy định về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập:
- Quy định về chi phí:
+ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành qui định 14 khoản chi phí hợp lý và 4 khoản chi phí không hợp lý. Thực tế trong quá trình thực hiện cho thấy việc quy định cả các loại chi phí hợp lý được trừ và các chi phí không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế là cần thiết, phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế trong thời gian đầu được chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, từng bước chuyển sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình vận động và phát triển theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (đa ngành nghề, đa lĩnh vực) việc quy định như trên không bao quát hết những khoản chi phí thực tế phát sinh dẫn đến việc hiểu và vận dụng khác nhau của doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước, tạo ra cơ chế “xin, cho” trong quá trình thực hiện.
Để việc xác định chi phí được thuận lợi và đảm bảo thực hiện thống nhất, tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong thực hiện khi có các nghiệp vụ kinh tế mới phát sinh, cần quy định rõ những khoản chi phí không được phép hạch toán vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, sẽ đảm bảo nguyên tắc và xu hướng chung khi xây dựng văn bản pháp luật hiện nay là Nhà nước cần quy định rõ những điều cấm, mọi chủ thể được thực hiện những điều mà pháp luật không cấm. Đồng thời để phù hợp với cơ chế tự khai, tự nộp thuế theo quy định của Luật quản lý thuế, cần quy định những khoản chi phí không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế (những khoản chi phí không quy định đương nhiên được công nhận là chi phí hợp lý).
- Về thu nhập chịu thuế đối với chuyển quyền sử dụng đất:
Trước 01/01/2004, doanh nghiệp chuyển quyền sử dụng đất phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất (2% đối với đất ở nông thôn, 4% đối với đất ở đô thị). Tại thời điểm này, hoạt động chuyển quyền sử dụng đất đặc biệt là các doanh nghiệp được giao đất phát sinh thu nhập lớn, với quy định của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất như trên chưa đảm bảo mức điều tiết hợp lý đối với thu nhập từ hoạt động này. Do đó cần phải có chính sách điều tiết hợp lý, kịp thời đối với thu nhập từ hoạt động này. Trong bối cảnh đó, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2003 đã chuyển đối tượng trên sang áp dụng chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với hoạt động chuyền quyền sử dụng đất của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thực hiện Luật đất đai sửa đổi, từ năm 2005 đến nay, mọi trường hợp được Nhà nước giao đất để đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư nhà để chuyển nhượng đều phải thực hiện thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc theo giá đất do Ủy ban nhân dân địa phương quy định hàng năm (sát với giá thị trường), khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản trên đất cho người mua đều chuyển nhượng theo giá thị trường. Nhờ sự thay đổi về cơ chế xác định giá đất theo giá thị trường, số thu về đất đai đã tăng lên và giảm bớt một phần lợi nhuận siêu ngạch của doanh nghiệp so với cơ chế định giá không sát giá thị trường trước đây.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh bất động sản chuyển sang phát triển theo xu hướng thị trường, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản có chuyển quyền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất thường chuyển thu nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất sang thu nhập kinh doanh tài sản trên đất để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung và được hưởng ưu đãi. Việc tổ chức quản lý thu thuế trong trường hợp này gặp nhiều khó khăn, phức tạp, chưa đồng bộ.
3.2.2 Về quy định nơi nộp thuế
Luật thuế thu nh được ban hành trong điều kiện doanh nghiệp thường có trụ sở điều hành và hoạt động trên địa bàn tại một địa phương, do đó việc quy định kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại trụ sở điều hành là phù hợp. Nay khi nền kinh tế phát triển, nhiều doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình mới: mô hình tập đoàn, công ty mẹ con thực hiện sản xuất kinh doanh ở một nơi, trụ sở điều hành ở một nơi khác dẫn đến tình trạng địa phương nơi sản xuất kinh doanh phải gánh chịu tác động của môi trường, tạo ra sức ép lớn về bảo đảm trật tự an ninh, giải quyết các vấn đề xã hội nhưng lại không có nguồn thu vì nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp được tập trung nộp tại địa phương nơi đóng trụ sở chính.
3.2.3 Về chính sách ưu đãi thuế
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được ban hành trong thời gian nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, mặt bằng pháp luật chưa đồng bộ,... nên cần có chính sách ưu đãi để thu hút nguồn lực trong và ngoài nước. Những năm đầu thực hiện Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, trước tình hình đầu tư nước ngoài sút giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Châu Á, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được sửa đổi đã tổng hợp, thống nhất tất cả các mức ưu đãi cao nhất đang được quy định tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước nhằm tạo môi trường hấp dẫn để khuyến khích, thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp còn phức tạp, dàn trải, cần tiếp tục được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong tình hình mới.
3.3 Sự cần thiết của việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp dù có những điểm mạnh nhưng vẫn còn những điểm hạn chế, không phù hợp với sự phát triển của đất nước hiện này (như có một số qui định chưa phù hợp với các qui định pháp luật khác, chưa phù hợp với sự đầu tư mạnh mẽ hiện nay…). Vì vậy, để phát huy hơn nữa những ưu điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp, khắc phục những tồn tại nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 là cần thiết.
Kết luận
Có thể nhận thấy rằng với việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 đã góp phần hoàn thiện khung pháp luật thuế, cải thiện môi trường đầu tư theo hướng mở rộng hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài và tạo cơ sở vững chắc cho việc bổ sung nguồn ngân sách nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 có nhiều thay đổi căn bản với Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 đã thể hiện được đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với chế độ thuế hiện nay, đẩy mạnh quá trình hội nhập của đất nước.
Việc tìm hiểu và phân tích cơ sở lí luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 là cần thiết, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mục đích cũng như sự cần thiết của luật, qua đó có thế góp phần cải thiện việc áp dụng luật trong thực tế hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội – 2008
2. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2003
3. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008
4. Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
5. Luật quản lí thuế 2006
6. Bộ Tư pháp - Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tài chính – Vụ pháp chế, Đề cương giới thiệu Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
7. Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 06/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ
8. Chính phủ số: 519/CP-PC, Tờ trình Quốc hội về việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi)
9. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ, Đặc san tuyên truyền pháp luật số 09, Chủ đề Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, Hà Nội – 2008
10. Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến vào dự ắn Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, Báo Nhân dân, ngày 27/03/2008
11. Website:
http://www.hoidnquan1.com/index.php?option=com_content&task=view&id=930&Itemid=117 (Tiêu đề: Hoàn thiện Luật thuế thu nhập doanh nghiệp)
http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/giao-trinh-luat-thue-thu-nhap-doanh-nghiep.175620.html (Tiêu đề: Giáo trình Luật thuế thu nhập doanh nghiệp)
No comments:
Post a Comment