15/06/2014
Các tội phạm về ma túy - Bài tập nhóm Luật Hình sự 2
Trong những năm vừa qua, công tác phòng chống và kiểm soát ma túy đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên tình hình mua bán, vận chuyển, tang trữ vẫn chưa giảm; tình hình nghiện hút, tiêm chích và tổ chức sử dụng ma túy đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên. Ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm. Vì lẽ đó, Bộ luật hình sự Việt Nam đã dành hẳn một chương - Chương XVIII quy định các tội phạm về ma túy, gồm 10 điều tương ứng với 10 tội danh khác nhau

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, với bài tập nhóm tháng hai môn Luật Hình sự Việt Nam 2, nhóm 2, lớp N02–TL1 chúng em xin chọn đề bài số 5:

C mua được 2 kg cocain. C thuê K chuyển số cocain này đến thị xã X cho một người tên là H với tiền công là 20 triệu đồng. Biết là hàng cấm nhưng đang cần tiền nên K đã đồng ý. Trên đường vận chuyển vì lo sợ nên K có thái độ lấm lét khi cảnh sát kiểm tra giấy tờ xe và K đã bị đội đặc nhiệm bắt giữ cùng tang vật là goid hàng 2kg cocain. K thành khẩn khai báo sự việc. Số hàng do K vân chuyển được đưa đi giám định. Theo kết quả giám định thì đó là chất ma túy giả. Cơ quan điều tra cũng xác định được C mua lầm số hàng giả nói trên của một người tên là P. Mở rộng điều tra, cơ quan điều tra cũng xác định được rằng P biết số cocain bán cho C là giả nhưng P vẫn bán cho C.

Anh chị hãy:

1. Xác định tội danh của hành vi của C, K và P

2. Giả thiết rằng trên đường vận chuyển biết được giá trị của ma túy K đã lấy khoảng 50 gam giấu đi và đánh tráo bằng 50 gam bột trắng (ma túy) giả thì K có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình không? Tại sao?


3. Số ma túy đã lấy được K đã dùng để thanh toán tiền công sửa chữa nhà vệ sinh cho thợ xây là anh S thì K có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này không? Tại sao?


NỘI DUNG CHÍNH

1. Xác định tội danh của hành vi của C, K và P

Xác định tội danh đối với hành vi của C

C phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 194 BLHS dựa vào các dấu hiệu pháp lý sau:

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma túy để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để đổi lấy ma túy

*) Khách thể của tội phạm

Khách thể chung của các tội phạm về ma túy là chế độ quản lí các chất ma túy của nhà nước ở tất cả các khâu của quá trình quản lí. Các tội phạm này có đối tượng là các chất ma túy và các vật dụng phục vu sản xuất và sử dụng chất ma túy. Trong tình huống đối tượng của tội phạm là chất ma túy côcain. 

*) Mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi khách quan của tội mà C va P phạm đó là hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kí hình thức nào. Cụ thể C mua được 2kg côcain hành vi cua C ở đây hiểu là hành vi mua để bán lại cho người khác bởi lẽ C mua với số lượng lớn (2kg) cocain không thể là để sử dụng dần được kể cả C có nại ra rằng mình mua để dùng. 

*) Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của C là lỗi cố ý trực tiếp. 

*) Chủ thể: Từ những dữ kiện của đề bài có thể hiểu C là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với tội danh này.

Xác định tội danh đối với hành vi của P

Tiểu mục 1.4, mục 1, phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA – VKSNDTC – TANDTC – BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ Công An – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ tư pháp Hướng dẫn áp dụng một số quy định Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 “Trường hợp một người biết là chất ma túy giả những cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi… thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 BLHS, nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội này.”

Như vậy, hành vi của P cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 139 BLHS dựa vào các dấu hiệu pháp lý sau:

*) Mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản  gồm hai hành vi khác nhau đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt.

Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Ở đây, P đã bán cho C cô cain là hàng giả, P biết rõ đó là hàng giả và cố tình bán cho C. P thực hiện hành vi lừa dối C bán số cocain giả cho C để kiếm lời, nhằm thực hiện việc chiếm đoạt.

Vì đã tin P mà C đã nhận nhầm tài sản, cụ thể là cocain mà thực chất là hàng giả. 

*) Mặt chủ quan của tội phạm: 

Lỗi của P thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp. P biết mình có hành vi lừa dối, biết số cocain đó là hàng giả nhưng vẫn bán cho C và mong muốn hành vi lừa dối đó có kết quả để có thể chiếm đoạt được tài sản.

*) Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này do pháp luật quy định là chủ thể thường, đó là những người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định đều có khả năng trở thành chủ thể của tội phạm này. P là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định cho nên  P phải chịu TNHS về hành vi của mình.

Như vậy, P phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS

Xác định tội danh đối với hành vi của K

Dấu hiệu pháp lí:

*) Khách thể của tội phạm

Khách thể chung của các tội phạm về ma túy là chế độ quản lí các chất ma túy của nhà nước ở tất cả các khâu của quá trình quản lí. Các tội phạm này có đối tượng là các chất ma túy và các vật dụng phục vu sản xuất và sử dụng chất ma túy. Trong tình huống đối tượng của tội phạm là chất ma túy côcain. 

*) Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Trong tình huống, K được C thuê để chuyển số côcain đến thị xã X cho một người tên là H với tiền công là 20 triệu đồng. Tuy nhiên từ những dữ kiện của đề bài, chưa thể khẳng định K có biết được mục đích C nhờ vận chuyển ma túy là để mua bán hoặc nhằm mục đích khác hay chưa

*) Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của K là lỗi cố ý trực tiếp. 

Tiểu mục 3.2, mục 3, phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA – VKSNDTC – TANDTC – BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ Công An – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ tư pháp Hướng dẫn áp dụng một số quy định Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 “Vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách v.v…) mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma túy khác. 

Người giữ hộ, hoặc vân chuyển trái phép chất ma túy cho người khác, mà biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của người đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.”

Với quy định trên, với tình huống này, để định tội danh cho K ta có thể chia thành 2 trường hợp như sau:

Thứ nhất, nếu K vận chuyển ma túy cho C mà không biết mục đích để mua bán thì K sẽ bị truy cứu về tội vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại điều 194 BLHS.

Thứ hai, nếu K vận chuyển ma túy cho C mà biết rõ mục đích để mua bán của C thì K phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua, bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm (người giúp sức)

Như vậy, hành vi của K sẽ bị truy tố với tội danh Vận chuyển trái phép chất ma túy hoặc Mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm theo quy định tại điều 194 BLHS

2. Giả thiết rằng trên đường vận chuyển biết được giá trị của ma túy K đã lấy khoảng 50 gam giấu đi và đánh tráo bằng 50 gam bột trắng (ma túy) giả thì K có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình không? Tại sao? 

Nếu giả thiết rằng trên đường vận chuyển biết được giá trị của ma tuý K đã lấy khoảng 50g dấu đi và đánh tráo bằng 50gam bột trắng (ma tuý) giả thì K sẽ  phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Trong trường hợp này, hành vi của K cấu thành tội chiếm đoạt chất ma tuý theo quy định tại điều 194 - BLHS năm 1999. 

Theo khái niệm, hành vi chiếm đoạt chất ma tuý là hành vi chuyển chất ma tuý của người khác thành chất ma tuý của mình dưới bất kì thủ đoạn nào. Theo tiểu mục 3.4 phần II của thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP có quy định như sau: “Chiếm đoạt chất ma túy” là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy của người khác”. Như vậy, ta có thể xác định đây là tội chiếm đoạt chất ma tuý bởi căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý sau:

Thứ nhất, xét về mặt khách thể: đối tượng tác động của tội phạm là chất ma tuý – cụ thể là cocain. Hành vi của K đã xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma tuý. 

Thứ hai, xét về mặt khách quan: hành vi chiếm đoạt chất ma túy bao gồm nhiều hành vi của các tội xâm phạm sở hữu, như hành vi trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo,lạm dụng tín nhiệm, cướp giật, cưỡng đoạt và có cả hành vi cướp chất ma túy. Như vậy, hành vi để cấu thành tội chiếm đoạt chất ma túy rất đa dạng. Xét trong tình huống này thì hành vi của K là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma tuý. Bởi chất ma tuý được giao dựa trên hợp đồng thuê vận chuyển chất ma tuý đã được kí kết giữa C và K. Tuy ban đầu khi được C giao chất ma tuý để vận chuyển K không có ý định chiếm đoạt nhưng sau đó “vì biết được giá trị của ma tuý” nên K đã thực hiện hành vi gian dối là đánh tráo 50gam cocain thật bằng 50gam bột trắng (ma tuý) giả. Như vậy, trong khi thực hiện hành vi gian dối của mình K đã có ý thức chiếm đoạt chất ma tuý.

Thứ ba, xét về mặt chủ quan: tội phạm về ma tuý được thực hiện với lỗi cố ý. Trong trường hợp này K đã thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp - tức là, K đã nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi chiếm đoạt chất ma chất ma tuý nhưng vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra.

Thứ tư, xét về mặt chủ thể: Chủ thể của tội chiếm đoạt chất ma tuý là chủ thể thường nên bất kì ai có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định đều là chủ thể của tội phạm. Trong tình huống này thì K hoàn toàn là chủ thể của tội phạm .

Từ những dấu hiệu đã phân tích ở trên ta khẳng định rằng hành vi của K cấu thành tội chiếm đoạt chất ma tuý theo quy định tại điều 194 BLHS 1999.

Ngoài ra, ta có thể thấy trường hợp này K đã thực hiện 2 hành vi trái pháp luật hoàn toàn độc lập với nhau là vận chuyển trái phép chất ma túy và chiếm đoạt chất ma túy được quy định trong cùng một điều luật là Điều 194 BLHS. Theo quy định tại điểm c, tiểu mục 3.5 phần I của thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP hướng dẫn: “Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội độc lập mà người ấy đã thực hiện. Khi xét xử, Tòa án áp dụng Điều 50 của BLHS để quyết định hình phạt chung”. Như vậy 2 hành vi trái luật độc lập sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự độc lập.

Do đó, trong trường hợp này K bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội danh vận chuyển trái phép chất ma tuý và chiếm đoạt chất ma tuý.

Căn cứ vào khối lượng ma tuý mà K đã chiếm đoạt (50 gam), K sẽ phải chịu hình phạt được quy định tại điểm b – khoản 3 - Điều 194 BLHS 1999: “Hêrôin hoặc cocain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam”. Theo đó, K sẽ bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm. Ngoài ra, K có thể phải chịu hình phạt bổ sung được quy định tại Khoản 5 của điều luật này đó là “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

3. Số ma túy đã lấy được K đã dùng để thanh toán tiền công sửa chữa nhà vệ sinh cho thợ xây là anh S thì K có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này không? Tại sao? 

Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNHTC-TANDTC-BTP tại phần II về các tội phạm cụ thể có quy định:

3.3. “Mua bán trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:

a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;

b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);

đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;

e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Ta có thể thấy trong trường hợp này, K đã dùng 50 gam ma túy chiếm đoạt được bằng cách đánh tráo khi vận chuyển để thực hiện chức năng thanh toán. Việc thanh toán này là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật vì vật được dùng để thanh toán là ma túy - vật bị cấm lưu thông.

Tội vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy quy định tại điều 194 BLHS là tội có cấu thành hình thức, không đòi hỏi hậu quả là dấu hiệu bắt buộc. Do đó, việc số côcain K đã chiếm đoạt và dùng để thanh toán thực ra là giả mà K không biết thì không làm thay đổi tội danh của K.

Như vậy, K phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình.

KẾT LUẬN

Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn ma túy, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên tệ nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy là việc xử lý các hành vi phạm tội về ma túy. Thiết nghĩ, để hạn chế loại tội phạm này, các quy định của pháp luật cần phải nghiêm minh và chặt chẽ hơn nữa.

Trên đây là toàn bộ bài tập nhóm tháng thứ hai môn Luật Hình sự Viêt Nam 2 của nhóm chúng em. Vì khuôn khổ bài làm có hạn nên có thể chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm 2 lớp N02 TL1 chúng em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập2, NXB CAND, Hà Nội 2010
2. GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và Cấu thành tội phạm, NXB CAND, Hà Nội 2010
3. GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình Luật hình sự Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội 2010
4. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học bộ luật hình sự phần các tội phạm tập II, IV Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh. 
5. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (Đã được sửa đổi bổ sung ngày 19 tháng 6 năm 2009)
6. Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA – VKSNDTC – TANDTC – BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ Công An – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ tư pháp Hướng dẫn áp dụng một số quy định Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999
7. Các website:
http://diendanphapluat.vn
http://sinhvienluat.vn
http://luatvietnam.vn

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hà - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment