Bắt người là biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế.
Các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt người sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân khi thực thi công vụ.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề nêu trên nên em đã chọn đề tài “Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này.” cho bài tập học kỳ.
Nội dung
1. Các quy định về bắt người trong tố tụng hình sự
“Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.”
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống và phòng ngừa tội phạm, cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm các quyền của công dân, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định ba trường hợp bắt người sau:
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Sau đây ta sẽ đi vào từng trường hợp bắt người cụ thể, được quy định trong BLTTHS.
1.1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( Điều 80 BLTTHS năm 2003)
“Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.”
* Đối tượng áp dụng
Đối tượng bị bắt tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo, những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị TA quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt để tạm giam. Chỉ bắt tạm giam khi xét thấy cần thiết.
* Điều kiện áp dụng
Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Bị can bị cáo bị phạm tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng, nhưng nhân thân xấu hoặc có căn cứ khẳng định bị can, bị cáo sẽ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra.
* Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam (khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003)
- Trong giai đoạn điều tra: việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định. Lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Đây là thủ tục bắt buộc nhằm bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt.
- Trong giai đoạn truy tố, thẩm quyền ra lệnh bắt thuộc về Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định.
- Trong giai đoạn xét xử, thẩm quyền ra lệnh bắt thuộc về Chánh án, Phó Chánh án tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử.
* Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam (khoản 2 Điều 80 BLTTHS )
- Phải có lệnh bắt.
- Người thi hành lệnh phải đọc và giải thích cho người bị bắt, trường hợp nghi ngờ người bị bắt có quyền yêu cầu cho xem lệnh bắt.
- Khi bắt phải lập biên bản bắt người, người bị bắt, người thi hành lệnh bắt, người chứng kiến phải cùng kí tên vào biên bản.
- Khi tiến hành bắt phải có đại diện của cơ quan và đại diện chính quyền nơi người bị bắt cư trú.
- Không bắt vào ban đêm (từ 10h tối tới 6h sáng) trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang.
1.2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp ( Điều 81 BLTTHS năm 2003)
“ Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.”
* Điều 81 BLTTHS 2003 quy định các trường hợp bắt khẩn cấp sau:
_ Trường hợp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều kiện:
- Có căn cứ khẳng định một người hay nhiều người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm ( căn cứ này có thể do cơ quan có thẩm quyền thẩm tra xác định, khẳng định người đó đang tìm kiếm công cụ phạm tội để thực hiện tội phạm).
- Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng.
_ Trường hợp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Điều kiện:
- Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã trực tiếp thực hiện tội phạm.
- Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn ( ví dụ người đó đang có hành động bỏ trốn, đang chuẩn bị trốn; người đó không có nơi cư trú rõ ràng ..)
_ Trường hợp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Điều kiện:
- Có dấu vết tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm.
- Cần ngăn chặn người đó trốn hay tiêu hủy chứng cứ (khoản 2 Điều 81).
* Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
* Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
- Áp dụng như bắt bị can, bị cáo;
- Lệnh bắt trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cấp thi hành.
- Sau khi bắt phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản để xét phê chuẩn, nếu không được phê chuẩn phải trả tự do cho người bị bắt ngay.
- Có thể tiến hành bắt bất cứ lúc nào.
1.3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã ( Điều 82 BLTTHS 2003)
* Bắt người phạm tội quả tang
“Là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.”
+ Các trường hợp phạm tội quả tang:
_ Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Hành vị thực hiện tội phạm có thể gây ra thiệt hại vật chất và cũng có thể ảnh hưởng tới tinh thần. Hành vi có thể diễn ra trong thời gian ngắn hoặc dài tùy từng trường hợp.
_ Trường hợp thứ hai: ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Trường hợp này vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, dấu vết của tội phạm trước khi bỏ trốn thì bị phát hiện.
_ Trường hợp thứ ba: đang bị đuổi bắt.
Trường hợp này người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Việc đuổi bắt phải liền ngay với việc chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội.
* Bắt người đang bị truy nã
Người đang bị truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ hoặc đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì bỏ trốn. Bắt người đang bi truy nã không thuộc trường hợp bắt quả tang mà là một trường hợp riêng biệt. Tuy nhiên do tính chất cấp bách như bắt quả tang nên Bộ Luật quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người bị truy nã cũng như bắt quả tang.
* Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Bất kì người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã.
* Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
- Việc bắt người phạm tội không cần lệnh của cá nhân hay cơ quan tổ chức nào.
- Sau khi bắt người phạm tội phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan công an, Viện kiểm sát, Uỷ ban nhân dân gần nhất.
1.4. Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt (Điều 83, 85 BLTTHS 2003)
- Tiến hành giao nhận người bị bắt để cơ quan có thẩm quyền sớm có biện pháp điều tra, khám phá tội phạm.
- Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang Cơ quan điều tra phải tiến hành lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ, phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
- Đối với người bị truy nã, sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã.
- Sau khi nhận người bị bắt phải thông báo cho gia đình người bị bắt, Chính quyền nơi người đó cư trú hay cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc biết.
2. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự
Việc bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị – xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy ta cần bổ sung thêm một số quy định như sau theo em sẽ khiến luật hoàn thiện hơn.
Từ nghiên cứu thực tiễn và tham khảo ý kiến của TS. Trần Quang Thông và ThS. Trần Thảo , quy định bắt người trong BLTTHS hiện hành cần một số sửa đổi hoàn thiện để đảm bảo tính thống nhất, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác như sau:
Thứ nhất, cần phải ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất, chi tiết việc bắt các đối tượng là đại biểu dân cử; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ CAND; người có chức sắc trong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có danh tiếng, có uy tín lớn trong các dân tộc ít người; trí thức, nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ý tới và người nước ngoài.
BLTTHS 2003 chưa có điều luật quy định việc bắt các đối tượng nêu trên. Trong khi đó việc bắt những “đối tượng đặc biệt” này được quy định trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước, văn bản của Đảng và Bộ Công an, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Công văn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/3/1992 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc xin ý kiến trước khi bắt, giam, giữ một số đối tượng đặc biệt; Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn giữa các cấp ủy Đảng với Đảng ủy Công an, Ban cán sự Đảng VKSND, Ban cán sự Đảng TAND trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên; Hướng dẫn số 05-HD/NCTW ngày 15/01/2001 của Ban Nội chính Trung ương về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xử lý tội phạm theo tinh thần chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về việc bắt giữ các đối tượng đặc biệt.
Thứ hai, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80 BLTTHS, với tên gọi của chế định này là: “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” nên đã dẫn đến cách hiểu: “Bắt người là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam”. Cách hiểu như vậy là không đúng bởi lẽ nếu coi “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam thì việc cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên căn cứ pháp lý nào? Vì vậy xác định tên gọi của chế định này là “bắt tạm giam bị can, bị cáo”.
Thực tế cho thấy việc bắt người bị kết án để thi hành bản án mà trước đó họ chưa bị tạm giam cũng gặp nhiều bất cập. Vì vậy cần ban hành mẫu lệnh bắt thống nhất “Lệnh bắt người bị kết án để thi hành án” theo thẩm quyền của Tòa án, giao cho lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực thi theo thủ tục chung.
Về hình thức lập pháp theo quy định tại Điều 80 BLTTHS đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam chưa quy định căn cứ bắt cho trường hợp này và những trường hợp không bắt tạm giam. Đối chiếu với quy định về các trường hợp bắt khác quy định như vậy là chưa thống nhất. Nên cần bổ sung quy định này vào Điều 80 BLTTHS như: “Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” và “đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù dưới 2 năm thì không bị bắt để tạm giam; nhưng đối với các trường hợp bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở cách xa Cơ quan điều tra hoặc có tiền án tiền sự hoặc là lưu manh chuyên nghiệp có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bắt tạm giam.
Khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại các Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này” theo em là chưa chính xác, không thống nhất mà phải quy định rõ “không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm”.
Với đề xuất như trên có thể sửa đổi bổ sung Điều 80 BLTTHS như sau:
“ Điều 80. Bắt tạm giam bị can, bị cáo
1. Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù dưới 2 năm không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở cách xa CQĐT hoặc có tiền án tiền sự hoặc có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra thì có thể bắt tạm giam.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không bắt tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm ANQG và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến ANQG.
3. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
.....
4. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bị bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu...
5. Không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người theo quyết định truy nã”.
Thứ ba, về khoản 4 Điều 81 BLTTHS quy định về thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện Kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới” và “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này” thì rất khó xác định được Viện Kiểm sát cùng cấp như khi tàu bay đang bay trên bầu trời, tàu biển đang ở ngoài biển… Do đó, cần quy định bổ sung trong khoản 4 Điều 81 với nội dung “đối với trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền để xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là Viện Kiểm sát nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký”. Quy định như vậy mới kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn chặn hành động gây khó khăn cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
Thứ tư, Điều 82 BLTTHS quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong cùng một điều luật là không phù hợp về phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng vì đối tượng và thủ tục áp dụng, những việc cần làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong hai trường hợp này không giống nhau.
Về đối tượng: Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang chưa phải là bị can, bị cáo; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã là người đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù thì bỏ trốn mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã. Về biện pháp ngăn chặn: Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang họ có thể bị giam giữ hoặc không bị giam giữ theo Điều 86 BLTTHS; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã thì sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam đối với họ.
Về thủ tục bắt: Điều 82 BLTTHS chỉ quy định thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, thiếu các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị bắt, các vấn đề cần phải giải quyết sau khi tiếp nhận người bị bắt. Những nội dung này lại được quy định trong Điều 83 BLTTHS: Khoản 1 quy định những vấn đề cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; khoản 2 quy định những việc cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã.
Nên quy định các nội dung này trong một điều luật cho rõ căn cứ bắt, thẩm quyền, thủ tục bắt trong từng trường hợp và những việc cần làm sau khi bắt. Việc làm này bảo đảm tính khoa học về mặt kỹ thuật lập pháp, góp phần hạn chế được những thiếu sót khi xây dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Cần quy định thêm nội dung bất kỳ người nào cũng có quyền “lục soát tước vũ khí, hung khí của người bị bắt” trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, để phân biệt với biện pháp khám người theo quy định tại Điều 182 BLTTHS. Vì khoản 2 Điều 82 BLTTHS chỉ quy định: “khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt”, trong khi trên thực tế nhiều trường hợp người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thường có vũ khí và rất dễ chống trả ngay nếu bị bắt giữ. Quy định này nhằm khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Về tên gọi trường hợp bắt người đang bị truy nã theo quy định tại Điều 82 BLTTHS, nên quy định tên điều luật là “bắt người theo quyết định truy nã” sẽ chính xác hơn.
Thứ năm, cần bổ sung thêm quy định về việc bắt người nước ngoài phạm tội . Khi bắt người nước ngoài phạm tội, ngoài việc tuân theo các quy định từ Điều 79 đến Điều 82 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), còn phải tuân theo quy định của các văn bản pháp luật khác. Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, họ có thể là người không có quốc tịch hoặc có quốc tịch nước khác hiện đang sinh sống tại Việt Nam, họ có địa vị pháp lý khác nhau nên khi phạm tội thì thẩm quyền, thủ tục bắt họ cũng khác nhau.
Đối với người nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự: theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh về quyền ưu đãi miễn trừ dành cho cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993 thì viên chức ngoại giao được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được đối xử trọng thị, họ không thể bị bắt, bị tạm giữ dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu họ phạm tội quả tang thì cơ quan có thẩm quyền chỉ lập biên bản, thu giữ vật chứng, sau đó trả tự do cho họ và báo cáo ngay lên lãnh đạo Bộ Công an, cơ quan đại diện ngoại giao biết để phối hợp, xử lý. Các thủ tục tiếp theo giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Đối với người nước ngoài không được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự: phạm tội trên lãnh thổ nước Việt Nam. Theo Công văn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/3/1992 của Bộ Công an trong về việc báo cáo xin ý kiến trước khi bắt, giam giữ một số đối tượng đặc biệt, thì việc bắt người nước ngoài phạm tội phải báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Bộ trước khi bắt; nếu phạm tội quả tang thì ngay sau khi bắt phải báo cáo nhanh nhất lên lãnh đạo Bộ. Quy định này là cần thiết và phù hợp với đặc điểm tình hình trước đây, thời điểm đó số lượng người nước ngoài vào nước ta còn hạn chế, đối tượng phạm tội chưa nhiều, chưa phổ biến.
Thời gian vừa qua, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam và đã thực hiện hành vi phạm tội có chiều hướng gia tăng. Khi bắt các đối tượng này, các đơn vị, địa phương có thể chủ động giải quyết mà không cần xin ý kiến trước của lãnh đạo Bộ. Việc báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Bộ sẽ gây khó khăn, cản trở công tác điều tra, tạo tâm lý ỷ lại cấp trên, thụ động trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghiên cứu về trường hợp bắt người này, cho thấy tại kết luận số 212/BBT ngày 25/5/1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng quy định: “Việc bắt, giam, giữ những người có hành vi phạm pháp là tri thức, văn nghệ sĩ chức sắc trong tôn giáo và dân tộc ít người, người nước ngoài, người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài phải được Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ đồng ý”. Sau đó chủ trương trên đã được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn. Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị yêu cầu việc báo cáo xin ý kiến cấp uỷ chỉ trong phạm vi “người phạm tội là người nước ngoài hoạt động chính trị phản động hoặc phạm pháp về kinh tế, nhưng việc xét xử có ảnh hưởng về chính trị”. Với những trường hợp này, khi Công an cấp tỉnh phát hiện thì Ban giám đốc báo cáo với đồng chí Bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, đồng thời báo cáo với Đảng uỷ Công an Trung ương xin ý kiến chỉ đạo”. Công văn số 81 ngày 10/6/2002 của TAND tối cao quy định: “đối với vụ án hình sự có bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài thì thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án cấp tỉnh”, nếu cấp huyện phát hiện người nước ngoài phạm tội thì phải chuyển vụ việc cho cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên xử lý. Hiện nay, theo Quyết định số 1044/QĐ - BCA (C11) ngày 05/9/2007 về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong hoạt động điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp, thì thủ tục bắt đối tượng là người nước ngoài tiến hành như thủ tục bắt được quy định trong BLTTHS. Trong thực tiễn, sau khi bắt những đối tượng này, các cơ quan tiến hành tố tụng thường có văn bản thông báo cho
Sở Ngoại vụ để theo dõi, xác định đối tượng có quốc tịch nước nào và thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao nước họ biết để phối hợp xử lý.
Kết luận
Các quy định về bắt người trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam là cơ sở pháp lí cần thiết cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân.
Các quy định về bắt người trong thời gian qua đã góp phần đắc lực cho quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng cũng đã bộc lộ ra không ít những vướng mắc, bất cập của các quy định luật và sai phạm từ phía người áp dụng. Những khiếm khuyết đó xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, khách quan có, chủ quan có, có những nguyên nhân lại thuộc về công tác xây dựng pháp luật….
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp bắt người nói riêng đòi hỏi các nhà làm luật phải không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, các cơ quan và những người khác có thẩm quyền theo luật định cần triệt để tuân thủ pháp luật trong quá trình thực thi.
Đề tài “Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này” là một hay và thú vị nhưng cũng rất khó đòi hỏi kiến thức tương đối rộng không chỉ trên sách vở mà còn trong cả thực tế, do kiến thức còn hạn chế và chưa khai thác được tối đa hiện quả những tài kiệu tham khảo, nên dù đã cố gắng nhưng em vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình làm và trình bày bài. Do đó em rất mong nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
2. Học viện cảnh sát nhân dân, Bộ môn pháp luật, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội 2005.
3. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.
4. Các trang web liên quan:
- http://www.pup.edu.vn/
- http://www.tracuuphapluat.info/
Cảm ơn bạn Giang Linh - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment