14/06/2014
So sánh cơ sở hình thành và phát triển của Nhà nước và pháp luật của phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại - Bài tập học kỳ Lịch sử Nhà nước và Pháp luật thế giới
Lịch sử nhà nước và pháp luật phương Đông và phương Tây cổ đại là một nội dung quan trọng của lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới. Cơ sở hình thành và phát triển của nhà nước và pháp luật phương Đông và phương Tây cổ đại có ảnh hưởng nhất định tới nhà nước và pháp luật trung đại và cận, hiện đại sau này. Nhà nước và pháp luật phương Đông và phương Tây cổ đại vừa có sự tương đồng cũng vừa có sự khác biệt về các cơ sở hình thành và phát triển này.

Để hiểu rõ hơn, bài viết dưới đây trình bày đề tài: ”So sánh cơ sở hình thành và phát triển của Nhà nước và pháp luật của phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại”.

Nội dung

1. Điểm giống nhau giữa cơ sở hình thành và phát triển của Nhà nước và pháp luật của phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại

Nhìn chung, cơ sở hình thành và phát triển của nhà nước và pháp luật phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại đều tuân theo quy luật chung đó là do sự hình thành các mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể điều hòa được dẫn đến sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và hình thành nhà nước.

Đầu tiên, sự xuất hiện đồ kim loại đã tạo một bước biến chuyển lớn về công cụ sản xuất lao động, làm cơ sở tiền đề cho sự phát triển của nghề chăn nuôi và công nghiệp, của thủ công nghiệp và thương nghiệp. Công cụ lao động kim loại, đặc biệt là sắt đã giúp con người gia tăng sản phẩm sản xuất, từ đó kích thích chăn nuôi, nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển. Khi sản phẩm dư thừa, việc trao đổi giữa các bộ lạc cũng hình thành và phát triển, từ đó tạo nên nền thương nghiệp cũng hình thành và phát triển.

Tiếp đó là sự biến chuyển từ chế độ công xã thị tộc mẫu hệ sang chế độ công xã thị tộc phụ hệ. Cùng với sự phát triển của các ngành nghề lao động, vai trò của người đàn ông ngày càng quan trọng hơn và vì thế tạo nên sự biến chuyển giữa hai chế độ này. Đồng thời, chế độ hôn nhân đối mẫu đã chuyển sang chế độ gia đình một vợ một chồng. Quá trình hình thành gia đình một vợ một chồng lại gắn liền với quá trinh phát sinh chế độ tư hữu, với quá trình phân hóa xã hội thành giai cấp.

Thứ ba là sự xuất hiện chế độ tư hữu và phát sinh chế độ nô lệ. Năng suất lao động tăng làm xuất hiện của cải dư thừa, do đó nảy sinh hiện tượng người bóc lột người tức là chiếm đoạt số sản phẩm thẳng dư do người khác làm ra kia, hình thành chế độ tư hữu. Từ đó, người ta bắt đầu nghĩ đến cách bóc lột sức lao động của những từ binh chiến tranh, biến họ thành nô lệ và kéo theo sự xuất hiện của chế độ nô lệ.

Cuối cùng là sự hình thành xã hội có giai cấp – sự xuất hiện nhà nước. Sự tích lũy của cải tư hữu ngày càng nhiều dẫn đến sự chênh lệch về tài sản và địa vị xã hội giữa các gia đình phụ hệ trong cùng thị tộc hay giữa các thị tộc với nhau, dần dần phân hóa thành tầng lớp người giàu và người ngèo. Giai cấp xuất hiện thì mâu thuẫn giai cấp cũng phát sinh và không ngừng phát triển một cách sâu sắc. Đến thời điểm mâu thuẫn giai cấp đạt đến đỉnh điểm mà chế độ công xã nguyên thủy không thể giải quyết được nữa, chế độ này tan ra và quyền lực rơi vào tầng lớp giàu có. Tầng lớp này đã đặt ra một bộ máy để làm công cụ thống trị tầng lớp dân nghèo và nô lệ. Nhà nước ra đời và để củng cố bộ máy nhà nước này là một loạt các quy tắc do tầng lớp thống trị đặt ra, từ đó hình thành pháp luật.

2. Điểm khác biệt giữa cơ sở hình thành và phát triển của Nhà nước và pháp luật của phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại.

Dù cùng trải qua quy luật chung về hình thành nhà nước và pháp luật, song mỗi nhà nước và pháp luật phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại vẫn có những cơ sở hình thành và phát triển riêng, mang tính đặc trưng của vùng.

2.1. Cơ sở kinh tế

Phương Đông thời kì cổ đại phát triển nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất tự túc, tự cấp hơn là phát triển nền kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp. Những nền văn minh phương Đông hình thành từ lưu vực những con sông lớn, lượng phù sa dồi dào và điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi là những tiền đề căn bản để hình thành nền văn minh nông nghiệp, từ đó tạo nên một nền kinh tế nông nghiệp phát triển. Do tính tự cung tự cấp của nền kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế nên nền thương nghiệp chưa phát triển.

Phương Tây thời kì cổ đại phát triển nền kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp hơn là nền kinh tế nông nghiệp. Các nền văn minh phương Tây chủ yếu hình thành trên hai bán đảo lớn là bán đảo Ban-căng và bán đảo I-ta-li-a. Đây là nơi không thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp, nhưng vì sự kém phát triển của nền nông nghiệp đã thúc đẩy các nền văn minh phương Tây phải trao đổi lương thực, từ đó thuận lợi cho việc phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp.

2.2. Cơ sở xã hội

- Thứ nhất, lực lượng lao động khác nhau.

Các nền văn minh phương Đông cổ đại tồn tại khá tách biệt với thế giới bên ngoài, họ ít bị chịu tác động của các yếu tố ngoại lai, đồng thời với sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp mà xã hội phương Đông cổ đại tồn tại một cách dai dẳng chế độ công xã nông thôn. Do đó, lực lượng lao động chính để làm ra của cải vật chất là tầng lớp nông dân công xã.

Khác với phương Đông, ở phương Tây, nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, việc trao đổi hàng hóa cùng chiến tranh để giành được nhiều nguồn lợi tự nhiên là nguyên nhân tạo nên lực lượng lao động chính của phương Tây là tầng lớp nô lệ (mà đa phần là những tù binh chiến tranh).

- Thứ hai, mâu thuẫn xã hội khác nhau.

Từ sự khác nhau về lực lượng lao động chính mà mâu thuẫn giữa các giai tầng ở phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại khác nhau. Ở phương Đông cổ đại là mâu thuân giữa gia cấp thống trị (vua, quan, quý tộc) với giai cấp bị trị (nông dân công xã, nô lệ và thợ thủ công). Ở phương Tây cổ đại, mâu thuẫn giai cấp phát sinh giữa tầng lớp chủ nô và nô lệ; ngoài ra còn có một giai cấp nữa là tầng lớp người dân tự do nghèo.

- Thứ ba, cơ cấu xã hội khác nhau.

Ở phương Đông cổ đại, tầng lớp nông dân công xã chiếm phần lớn. Ở phương Tây cổ đại, tầng lớp nô lệ chiếm đa số.

2.3. Cơ sở chính trị

Ở phương Đông do sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, lại gắn với điều kiện tự nhiên là ở gần các con sông lớn mà nhu cầu trị thủy được đặt lên hàng đầu. Mà để thực hiện được công tác này, cần công sức của nhiều người, đó đó phải có một người đứng đầu để chỉ đạo tất cả, từ đó hình thành chế độ tập quyền chuyên chế.

Trái lại, phương Tây cổ đại hình thành muộn hơn nên tiếp thu được văn minh phương đông, đồng thời do điều kiện tự nhiên bị chia cắt nhiều và nền thương nghiệp phát triển nên rất hầu như không cần một người đứng đầu chỉ huy tập trung, việc thương nghiệp cũng tạo nên tư tưởng “sòng phẳng” trong trao đổi hay các mối quan hệ. Do đó, ở phương Tây hình thành chế độ dân chủ chủ nô.

2.4. Cơ sở đặc thù

Khác với những nhà nước phương Tây cổ đại hình thành từ sự phân chia giai cấp, cơ sở quan trọng nhất dẫn đến sự hình thành và phát triển nhà nước phương Đông thời kì cổ đại là nhu cầu trị thủy và chống ngoại xâm.

Ở phương Đông, điều kiện tự nhiên thuận lợi phát triển nông nghiệp do lãnh thổ hình thành từ lưu vực những con sông lớn, do đó yêu cầu trị thủy là yêu cầu đặc biệt quan trọng. Thêm nữa, do phụ thuộc vào thiên nhiên nhiều mà các tộc người có xu hướng tranh giành những vùng đất có điều kiện tự nhiên tốt, chiến tranh xâm lược nổ ra. Cả trị thủy và chiến tranh chống xâm lược hay xâm lược đều cần sức mạnh của một tập hợp người đông đảo, do đó vai trò thủ lĩnh – người đứng đầu rất quan trọng, biến người này trở thành người có quyền lực tối cao, áp đặt ý chí của mình lên mọi người. Công thêm với sức mạnh tư tưởng tôn giáo, vị trí này ngày càng được nâng cao. Vị trí thủ lĩnh này được gọi là “vua”. Vua có toàn quyền đặt ra bộ máy giúp việc, bộ máy cai trị, từ đó hình thành nên bộ máy nhà nước. Như vậy, có thể thấy các nhà nước phương Đông cổ đại ra đời từ những đòi hỏi hỏi của thuộc tính xã hội, rồi sau đó tính giai cấp mới được bộc lộ sâu sắc và rõ nét. Nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp không dẫn đến những lần phân công lao động xã hội mạnh mẽ như phương Tây nên dẫn đến chậm hình thành xã hội giai cấp. Do đó, yếu tố trị thủy và chống ngoại xâm là các cơ sở bổ sung, thúc đẩy cho cơ sở xã hội, chính trị phát triển mạnh hơn.

Ở phương Tây, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho chăn nuôi, thương nghiệp phát triển, lưu thông hàng hóa và nền thương nghiệp đã thúc đẩy sự phân chia giai cấp trong xã hội (3 lần phân công lao động), hình thành nên giai cấp chủ nô và nô lệ, dẫn đến sự mâu thuẫn không thể điều hòa và từ đó hình thành nhà nước.

Kết luận

Cơ sở hình thành Nhà nước và pháp luật của phương Đông và phương Tây thời kì cổ đại vừa có những điểm giống nhau phù hợp với quy luật chung của sự hình thành nhà nước, vừa có những điểm khác biệt tạo nên đặc thù riêng của từng vùng. Việc so sánh được các cơ sở hình thành này sẽ tạo tiền đề cho việc tìm hiểu sự hình thành của Nhà nước và pháp luật của phương Đông và phương Tây tại các thời kì tiếp sau đó.

Tài liệu tham khảo

1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, NXB, CAND, Hà Nội 2012.
2. Website:
-http://www.thuvienhaiphu.com.vn/datafile1/DC028885/chuong1.htm#IV
-http://diendankienthuc.net/diendan/lich-su-pho-thong/38869-su-hinh-thanh-cac-quoc-gia-co-dai-phuong-dong.html#ixzz2PUHCMfLC 

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Giang Linh - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment