Khái niệm phá sản mới chỉ được đặt ra ở Việt Nam trong vòng hai mươi lăm năm trở lại đây khi nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Phá sản được coi là hậu quả bất lợi đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá trình kinh doanh mà họ luôn tránh gặp phải. Và cũng chính vì vậy mà sự kiện phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã luôn có sự tham gia của nhà nước nhằm điều hành, giám sát tiến hành hoạt động phá sản của với mục đích cuối cùng là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ cũng như chính doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thông qua các cơ quan tố tụng như Tòa án nhân dân, tổ quản lí, thanh lí tài sản và Viện kiểm sát nhân dân. Đặc biệt trong đó, nêu cao vai trò quyết định Tòa án nhân dân nói chung và thẩm phán tòa án nhân dân nói riêng trong việc tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong phạm vi bài tập nhóm tháng của mình, chúng em xin được đi tìm hiểu và phân tích rõ thẩm quyền của thẩm phán trong thủ tục tố tụng phá sản theo quy định của Luật phá sản 2004.
B. Nội Dung
I. Khái quát chung
1. Khái quát chung về thủ tục phá sản
Thủ tục phá sản là một trong những thủ tục tố tụng tư pháp, quy định trình tự các bước tiến hành giải quyết yêu cầu phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào trạng phá sản. Pháp luật các nước tuy có quy định không đồng nhất với nhau về thủ tục này nhưng về cơ bản thủ tục phá sản đều hàm chưa hai thủ tục cơ bản đó là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục thanh lí doanh nghiệp. Phù hợp với xu hướng chung đó, Luật phá sản 2004 (LPS 2004) đã quy định đa dạng và linh hoạt các thủ tục mà tòa án có thể áp dụng khi giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, theo đó thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm:
- Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
- Phục hồi hoạt động kinh doanh;
- Thanh lí tài sản, các khoản nợ;
- Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. (Điều 5, LPS 2004)
2. Khái quát chung về thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản của Tòa án nhân dân và Thẩm phán Tòa án nhân dân
Như chúng ta đã biết, tòa án nhân dân là cơ quan tố tụng có nhiệm vụ và quyền hạn chính trong việc giải quyết yêu cầu phá sản. Trong đó các tòa án nhân dân địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó, căn cứ theo Điều 7, Luật phá sản 2004 “Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó”; “Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó”. Ngoài ra, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 còn quy định tòa kinh tế tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ quyền hạn giải quyết việc phá sản theo quy định của pháp luật (điểm c, khoản 3, Điều 30, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002).
Như vậy, trường hợp doanh nghiệp phá sản sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế Tòa án nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do các doanh nghiệp này đăng ký kinh doanh tại Phòng đăng ký kinh thuộc Sở kế hoạch đầu tư cấp tỉnh. Còn đối với hợp tác xã, do hợp tác xã có thể lựa chọn đăng ký kinh doanh tại cả hai cấp tỉnh và huyện nên thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản của hợp tác xã có thể thuộc về Tòa án nhân dân huyện,quận, thị xã trực thuộc tỉnh hoặc Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Hợp tác xã đăng ký kinh doanh ở cấp nào thì Tòa án cấp đó giải quyết. Quy định này của pháp luật hiện hành là điều hoàn toàn hợp lý và là một điểm mới so với quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Trước đây, pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết phá sản chỉ thuộc về tòa kinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh. Quy định đó dần dần không còn phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường cùng với sự gia tăng nhanh chóng của số lượng doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nếu chỉ có tòa án cấp tỉnh giải quyết thủ tục phá sản thì tòa án cấp tỉnh không thể giải quyết hết các yêu cầu tuyên bố phá sản. Do đó, luật phá sản 2004 đã quy định thêm thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã trực thuộc tỉnh.
Mặc dù Tòa án là cơ quan tố tụng có vị trí trung tâm trong việc giải quyết phá sản nhưng vị thẩm phán của tòa án mới thực sự là người đóng vai trò quyết định trong việc tiến hành thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo khoản 3, Điều 8, Luật phá sản 2004, Thẩm phán (Tổ thẩm phán) có nhiệm vụ, quyền hạn giám sát, tiến hành thủ tục phá sản và chịu trách nhiệm trước Chánh án và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Việc tiến hành thủ tục phá sản tại Tòa án nhân dân cấp huyện do một Thẩm phán phụ trách, tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh do một Thẩm phán hoặc Tổ thẩm phán gồm có ba Thẩm phán phụ trách và sẽ có một thẩm phán được giao làm tổ trưởng.
II. Thẩm quyền của thẩm phán trong thủ tục tố tụng phá sản theo Luật phá sản 2004
1. Thẩm quyền của thẩm phán trong giai đoạn thụ lý đơn và mở thủ tục phá sản
Tiếp nhận và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: là hoạt động pháp lý của Tòa án mà đại diện là thẩm phán. Đây là giai đoạn thẩm phán tiếp nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ thể có thẩm quyền được quy định từ Điều 13 đến Điều 18, LPS 2004 để tiến hành xem xét giải quyết các đơn yêu cầu. Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
Thứ nhất, sau khi nhận đơn: tòa án với đại diện là thẩm phán phải xem xét về tính hợp lệ của đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, bao gồm các vấn đề như: việc giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có thuộc thẩm quyền của mình hay không? Người nộp đơn có phải là các chủ thể được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định từ điều 13 đến 18, LPS hay không? Các tài liệu chứng minh liên quan có đầy đủ và hợp pháp hay không? Nếu xảy ra một trong các trường hợp được quy định tại Điều 24, LPS 2004 thì Thẩm phán có quyền trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nếu đơn yêu cầu và các tài liệu chưa đầy đủ và còn có sự sai sót thì thẩm phán có quyền yêu cầu người nộp đơn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung tài liệu nếu cần thiết trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu của Tòa án. Nếu nhận thấy đơn yêu cầu của đương sự đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu về mặt nội dung và hình thức, đồng thời người nộp đơn đã xuất trình biên lại nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và cấp cho người nộp đơn giấy báo đã thụ lý đơn. Trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì ngày thụ lý đơn là ngày Tòa án nhận được đơn. (Điều 22, LPS 2004).
Thứ hai, sau khi thụ lý đơn:
- Thẩm phán phải thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết trong trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 23, LPS)
- Thẩm phán ra thông báo tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với các cơ quan có liên quan trong các trường hợp: Thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án; Giải quyết vụ án đòi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản; Xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có bảo đảm. (Điều 27, LPS). Đây là một trong những điểm mới của LPS 2004 nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản:
+ Thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án. Trong trường hợp này, Thẩm phán phải gửi văn bản thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết và yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đó ra quyết định giải quyết vụ việc tạm đình chỉ thi hành án dân sự;
+ Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã là đương sự trong vụ án đòi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì Thẩm phán phải gửi văn bản thông báo cho Tòa án đang giải quyết vụ án và yêu cầu Tòa án đó ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
+ Với trường hợp có chủ nợ có bảo đảm yêu cầu xử lí tài sản bảo đảm doanh nghiệp, hợp tác xã thì thẩm phán phải thông báo cho họ biết về nguyên tắc chung việc xử lí tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đang phải tạm đình chỉ.
- Trong những trường hợp cần thiết, thẩm phán triệu tập cuộc họp giữa đại diện doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, đại diện các chủ nợ và đại diện người lao động của doanh nghiệp, hợp tác xã để làm rõ những dấu hiệu doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản trước khi có quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản. (Điều 28, LPS 2004)
Mở thủ tục phá sản
Việc quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án với đại diện là thẩm phán, quyết định này là cơ sở pháp lý để tiến hành giải quyết phá sản. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thẩm phán phải xem xét, nghiên cứu hồ sơ nhằm xác định xem có hay không căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản để ra một trong hai quyết định đó là: quyết định mở thủ tục phá sản và quyết định không mở thủ tục phá sản trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày thụ lý đơn. (Khoản 1, Điều 28, LPS). Nếu xét thấy doanh nghiệp, hợp tác xã chưa lâm vào tình trạng phá sản, thẩm phán ra quyết định không mở thủ tục phá sản. Quyết định này sẽ chấm dứt thủ tục giải quyết phá sản và ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người làm đơn yêu cầu do vậy pháp luật cho phép họ có quyền khiếu nại về quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của thẩm phán trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Nếu trường hợp đã có đủ các căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Quyết định mở thủ tục phá sản của Thẩm phán sẽ mở ra một giai đoạn tiếp theo đó là giai đoạn “giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản”. Giai đoạn này bắt đầu từ khi có quyết định mở thủ tục phá sản và kết thúc khi có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trong giai đoạn này, thẩm phán có thẩm quyền như sau:
Thứ nhất, Thẩm phán có thẩm quyền quan trọng trong việc quyết định áp dụng các thủ tục phá sản được quy định tại Điều 5, LPS đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định tại khoản 2, Điều 5, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có thể căn cứ vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp để ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh nếu nhận thấy doanh nghiệp có khả năng phục hồi hoặc quyết định áp dụng thủ tục thanh lí tài sản, các khoản nợ trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn khả năng tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, Thẩm phán cũng có thể quyết định chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nếu như doanh nghiệp, hợp tác xã đã được áp dụng các biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh nhưng vẫn không thể phục hồi và không thể có khả năng thanh toán nợ.
Thứ hai, đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, thẩm phán phải ra quyết định thành lập tổ quản lí, thanh lí tài sản để làm nhiệm vụ quản lí, thanh lí tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào trình trạng phá sản. Để chuẩn bị cho việc ra quyết định thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm phán sẽ gửi công văn đến các cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm yêu cầu họ cử người tham gia tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong công văn này, Thẩm phán phải ghi rõ về yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, tính chất của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và yêu cầu cử người đại diện cụ thể tham gia tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong trường hợp nếu nhận thấy người được cử không đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ thì thẩm phán có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cử người khác thay thế (Điểm 5 mục I Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP).
Thứ ba, Thẩm phán có thẩm quyền quyết định trong việc triệu tập và tiến hành Hội nghị chủ nợ. Các chủ nợ khi tham gia vào việc giải quyết phá sản sẽ tập hợp lại với nhau để tạo thành Hội nghị chủ nợ và đây là một hình thức pháp lý quan trọng để các chủ nợ thông qua đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong tố tụng phá sản. Thẩm phán có quyền triệu tập hội nghị chủ nợ trong những trường hợp việc giải quyết phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã cần phải có sự tham gia của hội nghị chủ nợ; kiểm tra sự có mặt và xem xét tính hợp lệ của Hội nghị chủ nợ. Theo quy định tại khoản 1, Điều 61, LPS 2004, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập xong danh sách chủ nợ hoặc kể từ ngày kiểm kê xong tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã nếu việc kiểm kê tài sản kết thúc sau ngày lập xong danh sách chủ nợ. Các hội nghị chủ nợ tiếp theo có thể được thẩm phán triệu tập và quyết định chương trình, nội dung và bất kỳ ngày làm việc nào trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo đề nghị của tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít nhất 1/3 tổng số nợ không có bảo đảm. Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản chủ trì (Khoàn 4, Điều 66, LPS 2004). Thẩm phán có quyền ra quyết định hoãn Hội nghị chủ nợ một lần nếu có đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia; quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại Hội nghị chủ nợ biểu quyết đề nghị hoãn Hội nghị chủ nợ; người có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ vắng mặt có lý do (khoản 1, Điều 66, LPS)
Thứ tư, thẩm phán có quyền kiểm tra, giám sát mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Căn cứ theo Điều 30, LPS 2004 “Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản”. Việc tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh bình thường trong tình trạng doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nhằm mục đích tạo cơ hội tái tổ chức hoạt động kinh doanh để cứu vớt doanh nghiệp vượt ra khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên quá trình này sẽ có sự ảnh hưởng nhất định tới khối lượng tài sản của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động kinh doanh thành công và có lãi thì khối lượng tài sản tăng lên cũng đồng thời tăng khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã. Nhưng nếu doanh nghiệp, hợp tác xã tiếp tục kinh doanh thua lỗ thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc bảo toàn tài sản và làm giảm khả năng thanh toán nợ cho các chủ nợ. Do vậy, để bảo toàn tài sản hiện có của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật trao cho Thẩm phán quyền kiểm tra, giám sát mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã trong giai đoạn này. Trong trường hợp nếu xét thấy người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã thì theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán ra quyết định cử người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã. (khoản 2, Điều 30, LPS 2004).
Ngoài ra, Thẩm phán có quyền giám sát, kiểm tra các doanh nghiệp, hợp tác trong việc không thực hiện những hoạt động bị pháp luật cấm quy định tại khoản 1, Điều 31, LPS và quyết định việc có được thực hiện hay không các hoạt động bị hạn chế của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 2, Điều 31, LPS kể từ ngày có quyết định mở thủ tục phá sản nhằm mục đích bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và chủ thể có liên quan:
- Thẩm phán sẽ giám sát chặt chẽ các hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản để ngăn việc doanh nghiệp, hợp tác xã cố tình thực hiện các hoạt động bị pháp luật cấm như cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp.
- Thẩm phán có quyền quyết định việc doanh nghiệp, hợp tác lâm vào tình trạng phá sản có được thực hiện hay không một số các hoạt động bị hạn chế bằng cách ra văn bản. Các hoạt động đó là: Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng, cho, cho thuê tài sản; Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; Chấm dứt việc thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; Vay tiền; Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã. Doanh nghiệp khi muốn thực hiện các hoạt động trên thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán trước khi thực hiện
Thứ năm, Thẩm phán có thể áp dụng các biện pháp trực tiếp khi cần thiết để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản:
- Thẩm phán phụ trách thủ tục phá sản có quyền quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo đề nghị của tổ quản lí, thanh lí tài sản trong những trường hợp cần thiết. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà thẩm phán có thể áp dụng, bao gồm: Cho bán những hàng hóa dễ bị hư hỏng, hàng hóa sắp hết thời hạn sử dụng, hàng hóa không bán đúng thời điểm sẽ khó có khả năng tiêu thụ; Kê biên, niêm phong tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; Phong tỏa tài khoản của doanh nghiệp, hợp tác xã tại ngân hàng; Niêm phong kho, quỹ, thu giữ và quản lí sổ kế toán, tài liệu liên quan của doanh nghiệp, hợp tác xã; Cấm hoặc buộc doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân, tổ chức khác có liên quan thực hiện một số hành vi nhất định. (Điều 55, LPS 2004). Khi áp dụng các biện pháp trên, Thẩm phán phải căn cứ vào tính chất của vụ việc và yêu cầu của việc áp dụng, xem xét, đánh giá một cách thận trọng để ra quyết định. Vì việc áp dụng các biện pháp này nhằm mục đích bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã nhưng không được làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Thẩm phán có quyền ra quyết định tuyên bố các giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1, Điều 43 là vô hiệu theo yêu cầu của chủ nợ không có bảo đảm, tổ quản lí, thanh lí tài sản. Theo khoản 1, Điều 43 LPS, các giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày tòa án thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu, bao gồm: Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác; Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia; Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn; Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ; Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Thẩm phán có thể ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, tổ trưởng tổ quản lí, thanh lí tài sản nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đó có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 45, LPS). Thẩm phán phải xem xét, quyết định trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị. Nếu chấp thuận thì thẩm phán ra quyết định đình chỉ hợp đồng, nếu không chấp thuận thì thông báo cho người đề nghị biết.
2. Thẩm quyền của Thẩm phán trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.
Phục hồi hoạt động kinh doanh là thủ tục được áp dụng khi doanh nghiệp, hợp tác xã còn khả năng phục hồi. Đây là cơ hội để doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản tái tổ chức lại hoạt động kinh doanh, giúp doanh nghiệp, hợp tác xã vượt ra khỏi nguy cơ bị phá sản. Trong giai đoạn này, pháp luật đã trao cho thẩm phán những thẩm quyền nhất định để trở thành người giữ vai trò điều hành toàn bộ hoạt động phục hồi của doanh nghiệp, hợp tác xã:
Đầu tiên, Thẩm phán là người ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Khoản 2, Điều 5, LPS 2004) sau khi “ ..Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.” (Khoản 1, Điều 68, LPS 2004). Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết trên, doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình và nộp cho Tòa án, nếu thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn không quá ba mươi ngày.
Sau khi ra quyết định áp dụng thủ tục này, Thẩm phán có những thẩm quyền sau đây:
Thứ nhất, thẩm phán xem xét, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thông qua hai giai đoạn được quy định tại điều 71, 72, LPS 2004:
- Thấm phán xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trước khi đưa ra Hội nghị chủ nợ - qui định tại Điều 70 Luật Phá Sản 2004. Theo đó, trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, Thẩm phán phải xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh để ra một trong các quyết định: đưa ra phương án Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định. Hoặc đề nghị sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh nếu thấy phương án đó chưa bảo đảm các nội dung được quy định tại Điều 69 LPS.
- Thẩm phán xem xét, thông qua phương án phục hồi kinh doanh sau khi quyết định đưa phương án đó ra Hội nghị chủ nợ xem xét. Theo quy định tại Điều 71, LPS 2004, trong thời hạn mười ngày kể từ ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ra hội nghị chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ. Tại đó Hội nghị chủ nợ sẽ xem xét, thảo luận phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Yêu cầu là Nghị quyết trên phải được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt đại diện cho từ hai phấn ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành.
Thứ hai, thẩm phán có quyền ra quyết định công nhận phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thông qua việc công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp, Hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan. Theo đó, tòa án sẽ gửi quyết định công nhận Nghị quyết trên của Hội nghị chủ nợ trong thời hạn không quá bảy ngày kể từ ngày thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của Hội nghị của nợ nói trên. (Điều 72, LPS)
Sau đó, sáu tháng một lần doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi cho thẩm phán báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Trong quá trình thực hiện, nếu các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã có thỏa thuận sửa đổi bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên và gửi quyết định đó cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định.
Thứ ba, thẩm phán có quyền ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điều 76 luật Phá sản năm 2004.
Theo khoản 1, thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh nếu có một trong các trường hợp sau đây:
- Đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Đây là trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh tức là đã thực hiện thành công thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này, thẩm phán cần phải ra quyết định công nhận sự phục hồi thành công của doanh nghiệp, hợp tác xã bằng quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trước đó. Và doanh nghiệp, hợp tác đó được coi là không còn lâm vào tình trạng phá sản nữa.
- Được quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ. Đây là trường hợp phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản chưa được thực hiện xong nhưng với sự hiện diện của quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý đình chỉ thì thẩm phán ra quyết định đình chỉ để thể hiện sự tông trọng ý chí định đoạt của các chủ nợ.
3. Thẩm quyền của thẩm phán trong thủ tục thanh lí tài sản, các khoản nợ
Thanh lí tài sản là thủ tục được áp dụng nhằm mục đích phân chia một cách hợp lí và công bằng tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cho các chủ thể có quyền lợi liên quan. Đối với thủ tục này, Thẩm phán có quyền ra quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản theo các trường hợp được quy định tại Điều 78, 79, 80, LPS 2004:
- Doanh nghiệp đã được áp dụng các biện pháp phục hồi kinh doanh nhưng vẫn không phục hồi được và không thanh toán được nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Trong trường hợp này, Thẩm phán có quyền ra quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mà không cần phải triệu tập hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục phục hồi;
- Hội nghị chủ nợ không thành do chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp không tham gia hội nghị chủ nợ hoặc không có đủ số chủ nợ tham gia Hội nghị chủ nợ sau khi hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ hoặc đại diện người lao động;
- Hội nghị chủ nợ ra nghị quyết thông qua giải pháp dự kiến phục hồi hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp không xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc thực hiện không đúng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trong quá trình thi hành quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, theo đề nghị của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm phán có thể ra quyết định cho phép Doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện một số hoạt động cần thiết cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó nhằm bảo đảm cho việc thành lý tài sản được diễn ra một cách hiệu quả nhất và đặc biệt nó đảm bảo về quyền lợi cho các chủ nợ.
Đối với các khoản nợ:
Trong trường hợp xử lý các khoản nợ chưa đến hạn: Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán, nhưng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán và khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có quyền ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn. (Điều 34, LPS 2004)
Trong trường hợp xử lý các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố: Thẩm phán có quyền cho phép xử lý tài sản bảo đảm nêu tại khoản 3, điều 27 Luật phá sản được cụ thể hóa tại khoản 2.3, điều 1, mục II của Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP TANDTC theo đó chỉ trong trường hợp có đầy đủ các điều kiện sau đây, thì Thẩm phán có thể cho phép xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với chủ nợ có bảo đảm :
- Tài sản có yêu cầu xử lý là tài sản bảo đảm cho khoản nợ đã đến hạn;
- Việc xử lý tài sản bảo đảm đó không làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
- Người yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm có đơn yêu cầu, trong đó trình bày các lý do của việc xin xử lý tài sản bảo đảm và xét thấy các lý do đó là chính đáng, việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với chủ nợ có bảo đảm là cần thiết.
Như vậy, nếu như không xét tới yếu tố về thủ tục, về cơ bản để được xử lý tài sản bảo đảm, thì nghĩa vụ được bảo đảm phải đến hạn và việc xử lý tài sản bảo đảm không thực sự có tác động tiêu cực đến quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Thẩm phán có toàn quyền xem xét các tiêu chí đánh giá nêu ở trên để cho phép hoặc từ chối việc xử lý tài sản bảo đảm. Thẩm phán có quyền ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó; nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Đối với việc thanh toán các khoản nợ mới phát sinh cho các chủ nợ mới, trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, điểm e, khoản 2 điều 31, Luật phá sản quy định sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, việc thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện. Tuy nhiên, không có quy định nào trong pháp luật phá sản nêu rõ các căn cứ hay tiêu chí nào mà dựa vào đó Thẩm phán có thể đưa ra quyết định cho phép thanh toán một khoản nợ mới. Trên thực tế, điều này không tạo động cơ cho chủ nợ cũ hay mới tham gia một cách “mặn mà” vào quá trình phục hồi doanh nghiệp. Nên quy định theo hướng các quyền đòi nợ của các bên đã cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp được phát sinh hợp pháp sau khi mở thủ tục phá sản sẽ được thanh toán khi đến hạn mà không cần phải xin phép Thẩm phán.
Sau khi đã thanh toán các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố, thẩm phán ra quyết định thực hiện việc phân chia, thanh lý các tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản theo thứ tự ưu tiên được quy định tại Điều 37, LPS 2004: Chi phí cho việc giải quyết phá sản doanh nghiệp; Lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội của người lao động của doanh nghiệp; Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc luật định.
Cuối cùng, Thẩm phán có quyền ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản trong trường hợp Doanh nghiệp hợp tác xã không còn tài sản để thực hiện phương án phân chia tài sản hoặc phương án phân chia tài sản đã được thực hiện xong theo quy định tại Điều 85, LPS 2004.
4. Thẩm quyền của Thẩm phán trong thủ tục tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
Thẩm phán có quyền ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chủ thủ tục thanh lý tài sản (Điều 86, LPS 2004). Khi ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, Thẩm phán phải xem xét trách nhiệm của những người giữ chức vụ trong doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại Điều 94, LPS 2004; tùy theo trách nhiệm của từng người mà ra quyết định cấm đảm nhiệm chức vụ quản lí trong thời hạn thích hợp. Trước khi ra lệnh cấm, Thẩm phán cần trao đổi với cơ quan chủ quản, cơ quan cấp trên, cơ quan đăng ký kinh doanh để có quyết định phù hợp.
Đồng thời thẩm phán phải thông báo quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản sau khi có quyết định và khi quyết định có hiệu lực pháp luật, cụ thể:
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, tòa án phải gửi quyết định này cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản,Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và phải thông báo cho các chủ nợ, những người mắc nợ doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, đồng thời phải đăng trên báo địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản có địa chỉ chính, báo hàng ngày của trung ương trong 3 số liên tiếp. (Khoản 1, Điều 89, LPS 2004).
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định tuyên bố doanh nghiệp, Tòa án phải gửi quyết định cho cơ quan đăng ký kinh doanh để xóa tên doanh nghiệp, hợp tác xã trong sổ đăng ký kinh doanh. (Điều 89, LPS 2004).
Bên cạnh thủ tục phá sản thông thường như trên có những trường hợp thẩm phán phải áp dụng thủ tục phá sản rút gọn đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Đó là:
- Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết hạn nộp tiền tạm ứng phí phá sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản.
- Sau khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu, giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản.
Như vậy, thủ tục phá sản đặc biệt cũng bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận và thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản giống như thủ tục phá sản thông thường, Thẩm phán cũng sẽ có toàn bộ thẩm quyền tiến hành việc nhận đơn và thụ lí đơn như thủ tục trên nhưng sau đó doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đã hoàn toàn không còn tài sản hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tiền tạm ứng phí phá sản hay không đủ để thanh toán phí phá sản. Bởi vậy, Tòa án không thể tiến hành thủ tục phá sản theo các bước thông thường mà pháp luật cho phép thẩm phán tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, hợp tác xã về phương diện pháp lí cũng như kết thúc quan hệ nợ nần trong vụ việc phá sản. (Điều 87, LPS 2004)
III. Nhận xét
Như vậy, vị Thẩm phán được giao phụ trách tiến hành thủ tục phá sản có những thẩm quyền quan trọng và xuyên suốt quá trình tiến hành giải quyết việc phá sản từ khi tiến hành mở thủ tục phá sản, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thủ tục thanh lí tài sản, các khoản nợ đến khi tuyên bố phá sản. Có thể coi thẩm phán là người dẫn dắt, quyết định những bước đi của doanh nghiệp, hợp tác xã trong khi họ bị lâm vào tình trạng phá sản và không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn. Sở dĩ Pháp luật lại trao cho Thẩm phán tòa án nhân dân những nhiệm vụ và quyền hạn lớn như vậy là bởi vì sự kiện phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có ảnh hưởng rất lớn tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, của chính bản thân doanh nghiệp, hợp tác xã cùng với những người lao động làm việc trong doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong khi đó trình độ nhận thức và sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể này trên thực tế còn nhiều hạn chế. Do vậy, Thẩm phán phải là người giữ vai trò trung tâm trong việc tiến hành thủ tục phá sản để đảm bảo cân bằng lợi ích của các chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và người lao động và việc tiến hành thủ tục phá sản được tuân theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên để tổ chức thật tốt việc tiến hành thủ tục phá sản phải đòi hỏi Thẩm phán phải là người có trình độ chuyên môn cao, ngoài trình độ pháp lý, người Thẩm phán cũng cần phải có trình độ hiểu biết về nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính – kế toán. Tuy nhiên cho đến nay, trong đội ngũ thẩm phán vẫn chưa có thẩm phán chuyên trách về phá sản mà thường là kiêm nhiệm. Do vậy, trước mắt, cần phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm phán giải quyết phá sản, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra.
C. Kết Bài
Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động hiện nay tại nước ta, việc doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản diễn ra khá phổ biến, và doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động sản xuất, kinh doanh với quy mô càng lớn, lợi nhuận càng nhiều thì độ rủi ro kinh doanh càng cao và nguy cơ phá sản càng lớn. Do vậy, những người điều hành của doanh nghiệp, hợp tác xã cần phải nắm vững những kiến thức pháp luật về vấn đề này để có thể giúp đỡ thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản một cách nhanh chóng và hợp lý theo đúng quy định của pháp luật để đảm bảo lợi ích của chính doanh nghiệp, hợp tác xã mình, người lao động và các chủ nợ có liên quan.
No comments:
Post a Comment