Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một hệ thống bao gồm nhiều cơ quan (loại cơ quan) nhà nước có tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Nằm trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng có các đặc trưng như trên. Hai cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau, vậy, theo pháp luật hiện hành thì biểu hiện, tính chất,... của mối quan hệ đó như thế nào? Và dưới đây là phần tìm hiểu của em về đề tài: “Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp theo pháp luật hiện hành – thực trạng và giải pháp”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật hiện hành:
1. Trong cách thức tổ chức:
Hội đồng nhân dân là hình thức tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới, Hội đồng nhân dân không phải là cơ quan đại diện, tư vấn bên cạnh cơ quan hành chính hay là “cơ quan tự quản” như trong các chính quyền địa phương kiểu phong kiến trước đây và tư bản hiện nay, mà là cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ – được coi là một bộ phận hợp thành quyền lực Nhà nước chung của toàn quốc. Ủy ban nhân dân cũng không phải là một cơ quan hành chính của cấp trên đặt ra ở địa phương để “cai trị” mà là một cơ cấu thuộc Hội đồng nhân dân với nhiệm vụ chính là “chấp hành”. Hội đồng nhân dân, đồng thời được giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương. Vậy cả hai cơ quan này đều thuộc cơ cấu chính quyền địa phương thống nhất, cùng có chức năng quản lý địa phương theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện tại giữa Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân vẫn còn có sự phân biệt nhất định. Ủy ban nhân dân là cơ quan trực thuộc hai chiều: vừa trực thuộc Hội đồng nhân dân vừa trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước cấp trên nên Ủy ban nhân dân có tính độc lập tương đối, không còn lệ thuộc hoàn toàn vào Hội đồng nhân dân như lý luận nêu ra.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, theo Điều 3 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: ''Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức và trong bộ máy chính quyền địa phương''.
2. Trong cách thức thành lập:
Trong nhà nước tư sản, Ủy ban nhân dân do Chính phủ bổ nhiệm còn ở nước ta thì: ''Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân'' - Theo quy định tại Điều 123 Hiến pháp năm 1992 và Điều 2 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003. Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dân sẽ bầu ra Ủy ban nhân dân cùng cấp của mình theo hình thức bỏ phiếu kín. Tuy nhiên kết quả bầu cử các thành viên của Ủy ban nhân dân phải được chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn (Đối với cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương thì kết quả đó sẽ được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn).
Ủy ban nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách đề cử chức vụ từng người, gồm có các chức vụ sau: Chủ tịch, phó Chủ tịch và Ủy viên. Chủ tịch Ủy ban nhân dân được bầu ra trong số đại biểu Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân được bầu ra theo sự giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Trong nhiệm ký nếu khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch Ủy ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu. Người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Trong hoạt động:
Chính vì mối quan hệ đặc biệt của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong cách thức thành lập nên hoạt động của hai cơ quan này cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau, thể hiện như sau:
- Hội đồng nhân dân có quyền giám sát đối với hoạt động của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
- Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp. Ủy ban nhân dân còn có trách nhiệm cung cấp các tài liệu liên quan đến hoạt động giám sát khi Hội đồng nhân dân có yêu cầu (Theo Điều 81 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân).
- Ủy ban nhân dân còn phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp chuẩn bị nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân, xây dựng đề án trình Hội đồng nhân dân xem xét quyết định.
- Hội đồng nhân dân có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên trong Ủy ban nhân dân (Theo Khoản 5 Điều 58 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003).
- Khi quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân ra Nghị quyết và giám sát việc thực hiện Nghị quyết đó. Trong phạm vi, quyền hạn do pháp luật quy định, Ủy ban nhân dân ra Quyết định, Chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Các văn bản của Ủy ban nhân dân ban hành không được trái với Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Các Quyết định của Ủy ban nhân dân mà không thích đáng thì Hội đồng nhân dân có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ.
- Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Nhiệm kỳ hoạt động của Ủy ban nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp (Theo Điều 6 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân).
Trong nhiệm kỳ, hoạt động của Hội đồng nhân dân được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp Hội đồng nhân dân, hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Còn hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động của tập thể Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân và của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
II. Thực trạng và giải pháp mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật hiện hành
1. Thực trạng
Theo hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương địa diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và các cơ quan Nhà nước cấp trên” (điều 119). “Ủy ban nhân dân là do hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chiụ trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp” (điều 123).
Như vậy có thể thấy theo hiến pháp thì vai trò của hội đồng nhân dân là rất lớn. Hội đồng nhân dân có vai trò quyết định, giám sát tất cả các vấn đề quan trọng của địa phương, thực hiện kiểm tra giám sát hoạt động của ủy ban nhân dân cùng cấp. Tuy nhiên hiện nay trong mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân quyền lực của hội đồng nhân dân có xu hướng bị hạn chế dần và thẩm quyền của ủy ban nhân dân ngày càng lớn. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do hoạt động chủ yếu của hoạt động hội đồng nhân dân là: các kỳ họp của hội đồng nhân dân, của các ban thuộc hội đồng nhân dân và cuối cùng la hoạt động của đại biểu hội đồng nhân dân trong đó kỳ họp của hội đồng nhân dân là hình thức hoạt động quan trọng nhất. Tuy nhiên phiên họp của hội đồng nhân dân chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn(một năm hai lần) ở cấp xã từ 1 đến 2 ngày một lần, huyện là 3 đến 5 ngày và tỉnh là 5 đến 7 ngày. Tất cả các vấn đề quan trọng đều được thảo luận, quyết định và thông qua tại kỳ họp với khoảng thời gian rất ngắn này dẫn tới hiệu quả phiên họp không cao.
Về hoạt động của các ban thường trực hội đồng nhân dân cũng dạt hiệu quả không cao. Lí do là vì các ban của hội đồng nhân dân thường phải đảm nhiệm các công việc chuyên môn nên ít có thời gian để thực hiện hoạt động kiểm tra giám sát của mình, còn các đại biểu hội đồng nhân dân thường chỉ làm việc vào các phiên họp định kỳ hoặc bất thường của hội đồng nhân dân còn bình thường thì hầu như không có hoạt động. Vấn đề phụ cấp của đại biểu hội đồng nhân dân là không đáng kể dẫn đến không thể đáp ứng được các nhu cầu về vật chất và tinh thần cho họ thực hiện trách nhiệm giám sát của mình. Đó là chưa kể việc một số đại biểu hội đồng nhân dân còn là thành viên của ủy ban nhân dân diễn điến hoạt động kiểm tra giám sát của họ không đảm bảo tính công bằng khách quan.
Một vấn đề được quan tâm hiện nay là tâm tư của nhiều đại biểu Hội đồng nhân dân và thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân thường có mặc cảm là thấy chức năng của mình thì lớn, nhưng quyền hạn lại không có bao nhiêu. Những lúc gặp cơ quan cấp dưới đề nghị xin giải quyết việc này, việc nọ, nhất là xin thêm kinh phí bảo đảm tính khách quan, công bằng, phí để xây dựng cơ bản… thì đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân không giải quyết được gì, mà chỉ chuyển đề nghị đó cho Ủy ban nhân dân xử lý.
Khi nhân dân có những việc thắc mắc, tranh chấp quyền lợi với nhau, họ khiếu nại đến Thường trực Hội đồng nhân dân cũng không được giải quyết, mà Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ “kính chuyển” đến các cơ quan chức năng trực thuộc ủy ban nhân dân. Dần dần các đại biểu Hội đồng nhân dân và cả nhân dân cũng thấy nhàm chán. Nhiều đại biểu ngại tiếp xúc cử tri vì cảm thấy mình không có quyền hạn để giải quyết việc gì cả. Sau khi có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, thì Ủy ban nhân dân là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện các Nghị quyết đó. Trong quá trình ấy, tất cả các thành viên Hội đồng nhân dân có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thực hiện nghiêm túc nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Nếu thấy có vấn đề, thì báo cáo cho Ủy ban nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân biết và kiến nghị cách khắc phục. Nhưng những kiến nghị đó không phải là văn bản pháp quy buộc Thường trực Hội đồng nhân dân và Thường trực Ủy ban nhân dân phải thi hành mặc dù hai cơ quan này có trách nhiệm xem xét và trả lời các kiến nghị ấy đúng thời gian theo luật định.
Các Ban của Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân tiến hành giám sát trực tiếp, hoặc gián tiếp, khi thấy có những hiện tượng sai Hiến pháp, pháp luật thì thông báo ngay cho Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có vi phạm biết để sửa chữa. Vấn đề khó hiện nay là khi thấy có hiện tượng làm sai pháp luật của Ủy ban nhân dân hoặc của một cơ quan chính quyền nào đó, liệu các đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc các Ban của Hội đồng nhân dân có dám phát hiện và dám đấu tranh với các sai trái đó không? Thực tế trong thời gian qua, nhiều nơi có hiện tượng ngán ngại làm việc này, sợ bị trù dập hoặc gặp khó khăn trong hoạt động sau này.
2. Giải pháp
Một số phương hướng nhằm cải thiện mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân:
Thứ nhất: Trước tình hình hiện nay, đòi hỏi sắp tới Hội đồng nhân dân cần giảm bớt số lượng, tăng chất lượng, không nên chọn người của các cơ quan hành chính đưa vào Hội đồng nhân dân nhiều quá. Trong số thành viên Hội đồng nhân dân, ít nhất nên có khoảng 1/3 hoạt động chuyên trách được bồi dưỡng nghiệp vụ, được hưởng lương thỏa đáng và có đủ điều kiện để hoạt động. Đồng thời cần sớm ban hành luật về hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân, cần thể chế hóa chức năng giám sát của hội đồng nhân dân trong một văn bản thống nhất.
Thứ hai: Cần đổi mới phương thức hoạt động của hội đồng nhân dân, thường trực hội đồng nhân dân và đại biểu hội đồng nhân dân.
Thứ ba: Cần tăng cường mối quan hệ gắn bó, sự phân công hợp lí, phối hợp điều hòa giữa các cơ quan thực hiện hoạt động giám sát để hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân thực sự phát huy hiệu quả.
Thứ tư: Cần đảm bảo tính quyền lực thực tế của hội đồng nhân dân bằng việc nâng phụ cấp, bồi dưỡng ngiệp vụ cho các đại biểu hội đồng nhân dân để họ có thể thực hiên tốt hoạt động kiểm tra giám sát của mình.
Thứ năm: Đồng thời đổi mới hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân và cần đặc biệt chú trọng tới việc phát huy thực quyền của hội đồng nhân dân trong mối quan hệ với ủy ban nhân dân cùng cấp.
Thứ sáu: Cần hạn chế sự tham gia của đại biểu hội đồng nhân dân vào công tác ở ủy ban nhân dân cùng cấp nhằm đảm bảo tính công bằng, khách quan trong hoạt động kiểm tra giám sát của họ.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp tuy đã được quy định rất rõ trong hiến pháp, luật tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 2003) tuy nhiên trong thực tiễn mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp vẫn còn rất nhiều bất cập. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển, việc ngiên cứu cải cách tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và chính quyền địa phương nói riêng được coi là vấn đề rất quan trọng. Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân là hai bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước ở địa phương, vì vậy việc đi sâu vào tìm hiểu phân tích mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do kiến thức còn hạn chế nên việc tìm hiểu vấn đề “mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp – thực trạng và giải pháp” còn rất nhiều thiếu sót rất mong được sự quan tâm đánh giá của các thầy cô giáo trong tổ bộ môn luật Hiến Pháp Trường Đại Học Luật Hà Nội. Em xin cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, trường Đại Học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công An Nhân Dân, 2013.
2. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), nhà xuất bản chính trị Quốc gia.
3. Luật tố chức Hội Đồng Nhân Dân và Ủy Ban Nhân Dân năm 2003.
4. 60 câu hỏi về Hội Đồng Nhân Dân và Ủy Ban Nhân Dân các cấp nhiệm kì 1994 – 1999.
5. Cổng giao tiếp điện tử Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội: Hanoi.gov.vn.
6. Nguồn internet và một số tài liệu tham khảo khác.
Cảm ơn bạn Hung Luong đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment