04/05/2014
Bài tập học kỳ Luật Đất đai - Tình huống tranh chấp đất đai giữa gia đình ông A và xã Hải Bình

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô giá, là điều kiện để tồn tại và phát triển của con người và sinh vật khác ở trên trái đất. Đối với kinh tế - xã hội đất đai  là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa, an ninh và quốc phòng. Tình trạng khiếu nại  đất đai là một trong những vấn đề “nóng” ở các địa phương hiện nay đòi hỏi phải được giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời. Điều đó không chỉ  nhằm góp phần ổn định trật tự xã hội mà còn phòng tránh các hậu quả khác có thể  xảy ra. Trong chủ đề này em xin đề cập đến tình huống tranh chấp đất đai giữa gia đình ông A và xã Hải Bình.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

1, Phân tích vụ việc:

+ Ông A là chủ sở hữu hợp pháp thửa đất có diện tích 250 m2 đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2005.
+ Năm 2008, do nhu cầu mở rộng, nâng cấp đường giao thông liên xã, UBND xã Hải Bình ( huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) yêu cầu ông A tự tháo dỡ tường bao vào cây cối trên phần diện tích đất nhô ra ngoài đường. Trong khi phần đất đó nằm trong khuôn viên đất của gia đình ông A. 
+ Với lý do đó không phải là đất lấn chiếm mà là đất của gia đình ông nên ông A đã không dỡ bỏ tài sản, hoa màu trên đất đó. 
+ UBND huyện Tĩnh Gia đã ra công văn chỉ đạo UBND xã Hải Bình tổ chức cưỡng chế  dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất của gia đình ông A được sử dụng để cải tạo gường giao thong liên xã.
+ Gia đình ông A không đồng thuận và gửi rất nhiều đơn khiếu nại gửi UBND huyện Tĩnh Gia, UBND xã Hải Bình nhưng đến nay vẫn chưa được hồi đáp.

2,  Bình luận về việc làm của UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình đối với gia đình ông A.

Trước hết, việc làm của UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình đối với gia đình ông A là trái pháp luật  vì hai cơ quan này đã làm không đúng các trình tự, thủ tục về thu hồi đất.

Thứ nhất:  một phần đất của gia đình ông A nằm trong quy hoach, kế hoạch sử dụng đất của địa phương khi sử dụng vào mục đích công cộng là xây dựng đường giao thông liên xã. Theo khoản 2 Điều 39 Luật đất đai năm 2003 ( sửa đổi và bổ sung năm 2009) quy định về thu hồi đất sử dụng vào mục đích Quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng .

“Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.”

Trong tình huống nêu trên, khi có nhu cầu mở rộng và nâng cao đường giao thông liên xã, UBND xã Hải Bình và UBND huyện Tĩnh Gia đã không làm đúng các trình tự về thu hồi đất : sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố đã không thông báo cho ông A biết lí do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển cũng như không tiến hành các phương án tổng thể về bồi thường và giải phóng mặt bằng mà đã yêu cầu ông A tự tháo dỡ tường bao và cây cối trên phần diện tích đất nhô ra phía ngoài đường  trong khi phần đất này nằm trong khuân viên đất nhà ông và không phải là đất lấn chiếm ( thửa đất đã được cấp GCN quyền sử dụng đất vào năm 2005). Như vậy bước đầu hai cơ quan này đã thực hiện không đúng trình tự quy định của pháp luật.

Thứ hai : UBND huyện Tĩnh Gia chưa ra quyết định thu hồi đất mà đã tiến hành tổ chức cưỡng chế là trái với quy định của pháp luật hiện hành. Bởi vì, theo quy định thì UBND huyện trước tiên phải thực hiện đúng các thủ tục về thông báo và bồi thường , ra quyết định thu hồi đất và sau đó mới thực hiện cưỡng chế nếu đương sự không chấp hành vì đây là thu hồi đất để phục vụ lợi ích công cộng. Nhưng trong tình huống nêu trên, UBND huyện Tĩnh Gia đã tự ý thực hiện cưỡng chế trong khi không thực hiện đúng các trình tự thu hồi đất cũng như việc bồi thường cho ông A (UBND huyện Tĩnh Gia có công văn chỉ đạo UBND xã Hải Bình tổ chức chế dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất của gia đình ông A được sử dụng để cải tạo đường giao thông liên xã ). Hơn nữa, theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật đất đai năm 2003 thì UBND huyện mới có thẩm quyền thu hồi đất và không được ủy quyền. Nhưng trong tình huống này UBND huyện Tĩnh Gia lại ra công văn chỉ đạo UBND xã Hải Bình thu hồi và tổ chức chế dỡ bỏ công trình và cây cối trên phần đất của ông A trong khi đó phần đất này vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông. Như vậy việc làm của hai cơ quan này là trái với quy định của pháp luật và thực hiện không đúng thẩm quyền.

Thứ ba: khi ông A gửi rất nhiều đơn khiếu nại lên UNBD huyện và xã nhưng không nhận được hồi âm trong khi đó theo quy định tại điều 5 Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 ( sửa đổi và bổ sung năm 2005) : “ Cơ quan, tổ chức ,cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp người đến khiếu nại, tố cáo kiến nghị, phản ánh, tiếp nhận và giải quyết kịp thời…” và cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 36 của luật này : “ Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết”.

Như vậy, UBND huyện Tĩnh Gia đã vi phạm quy định của Luật khiếu nại tố cáo trong việc giải quyết khiếu nại của ông A , làm ngơ trước những bức xúc cần giải quyết kịp thời của người dân và thiếu trách nhiệm đối với việc làm của mình. 

Việc khiếu nại của gia đình ông A là đúng hay sai ? tại sao ?

Việc khiếu nại của gia đình ông A là đúng bởi như trên đã phân tích thì việc làm của  UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình đối với gia đình ông A là trái với quy định của pháp luật, hơn nữa sự việc này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông A. Theo quy định tại điều 74 của Hiến pháp năm 1992 “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào….”, khoản 1 Điều 138 Luật Đất Đai năm 2003, Khoản 1 điều 1 Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 ( sửa đổi và bổ sung năm 2005 ): “- Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Căn cứ vào những quy định trên thì gia đình ông A có quyền khiếu nại về đất đai khi lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại. 

Cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc này ? tại sao ?
UBND huyện có thẩm quyền giải quyết vụ việc này vì Theo điều 138 Luật đất đai 2003 về quyền giải quyết khiếu nại về đất đai thì “người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lí đất đai” và theo quy định tại điều 19 luật khiếu nại tố cáo thì : “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp”. Trong tình huống nếu trên, UBND huyện Tĩnh Gia đã ra quyết định hành chính và chỉ đạo công văn cho UBND xã Hải Bình, do đó thẩm quyền giải quyết vụ việc này thuộc về UBND huyện. Trong tình huống này, nếu việc giải quyết khiếu nại lần đầu của UBND huyện không thỏa đáng thì ông A có thể đệ đơn khiệu nại tiếp lên Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để giải quyết và quyết định này là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. (theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật đất đai năm 2003 ).

Vụ việc này cần được giải quyết như thế nào ?

Thứ nhất: về phía gia đình ông A:

Về mặt pháp lý : khi bị nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích công cộng, ông A có nghĩa vụ chấp hành và có quyền lợi được bồi thường về phần đất bị thu hồi và các tài sản gắn liền với phần đất đó. Bởi vì theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Luật đất đai năm 2003 quy định một trong số các trường hợp được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất đó là : “ nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”.Trong trường hợp này do năm 2005 thửa đất của gia đình ông A ( trong đó có phần đất bị thu hồi) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên khi bị thu hồi một phần ông A có quyền lợi được bồi thường và nguyên tắc bồi thường được quy định tai khoản 2 điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất bồi thường, hỗ trợ và tái định cư:

“2. Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư”

Về việc khiếu nại : Do đó, ông A có quyền được bồi thường về phần đất bị thu hồi của mình ( việc bồi thường có thể phần đất có cùng mục đích sử dụng hoặc bồi thường bằng tiền .

Do UBND huyện và UBND xã đã làm trái với quy định của pháp luật ( không thực hiện đúng trình tự thu hồi đất bồi thường cho người dân đã ra quyết định cưỡng chế ) xâm hại đến lợi ích hợp pháp, chính đáng của gia đình ông A nên ông A có quyền khiếu nại lên UBND huyện Tĩnh Gia về quyết định hành chính của cơ quan này giải quyết. Điều 63 nghị định 181 hướng dẫn thi hành luật đất đai quy định về  Trình tự giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện:

“ 1. Trong thời hạn không quá chín mươi (90) ngày, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai quy định tại Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân cấp huyện.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.

Quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải được công bố công khai và gửi cho người khiếu nại, người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.”

Như vậy, để đòi lại lợi ích hợp pháp chính đáng của mình ông A có thể khiếu nại lên UBND huyện giải quyết. Nếu trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải  quyết của Chủ tịch UBND huyện mà ông A không đồng ý với quyết định giải quyết đó  thì ông A có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân hoặc Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết và quyết định này là quyết định cuối cùng. Việc giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật đất đai và Luật khiếu nại tố cáo.

Thứ hai: về việc xử lý vi phạm của UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình. Theo quy định tại điều 141Luật đất đai năm 2003  xử lí đối với người vi phạm về pháp luật đất đai :

“Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với quy định của pháp luật trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai, quản lí hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lí đất đai; thiếu trách nhiệ m trong quản lí để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”

Tiếp theo đó là nghị định 181 hướng dẫn thi hành luật đất đai , điểm c và điểm e khoản 1 điều 175 quy định : 

Khoản 1 . Vi phạm quy định về thực hiện trính tự, thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất bao gồm: 

c. Giải quyết thủ tục hành chính không đúng trình tự…

e. Thực hiện thủ tục hành chính không đúng thẩm quyền.

Trong tình huống trên UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình giải quyết không đúng trình tự thủ tục hành chính và không đúng thẩm quyền trong quản lý và sử dụng đất nên theo quy định của khoản 2 điều 175 nghị định này sẽ bị khiển trách và bị cảnh cáo, nếu cố ý thì bị hạ bậc lương tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức. 

Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hằng đã chia sẻ tài liệu!

No comments:

Post a Comment