04/05/2014
Bài tập nhóm Dân sự 1 - Quyền của cá nhân với hình ảnh - 8 điểm
MỞ BÀI

Khi nền kinh tế càng phát triển thì  báo chí nước ta cũng ngày càng đổi mới, bám sát đời sống xã hội, thông tin nhanh chóng, nhiều hình ảnh minh họa đa dang và phong phú. Tuy nhiên, trong lĩnh vực báo chí cũng rất dễ đối mặt với việc xâm phạm tới một quyền vô cùng quan trọng của con người, đó chính là quyền nhân thân, đặc biệt là quyền của cá nhân với hình ảnh.Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn về điều này, nhóm em xin đưa ra một tình huồng và giải quyết bài tập:

“ Hãy xây dựng một tình huống hoặc sưu tầm một vụ việc thực tiễn về hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong lĩnh vực báo chí. Trên cơ sở phân tích nội dung vụ việc, cần làm rõ: 

1. Các yếu tố của hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh? 
2. Mối quan hệ giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư, quyền của cá nhân đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín? 

3. Nêu giới hạn của quyền của cá nhân đối với hình ảnh?"

NÔI DUNG

I. Tình huống 

Thu Ngọc là một diễn viên nổi tiếng. Trong một lần đi chơi với bạn trai là anh Đình Hùng thì cô bị một phóng viên cố tình chụp lại một bức hình mà khi nhìn vào dễ gây hiều nhầm là cô Ngọc đang tát bạn trai của mình. Ngay ngày hôm sau bức ảnh đó được đăng tải trên một trang báo điện tử chứa những nội dung sai sự thật với tiêu đề là: “ Bất ngờ việc diễn viên Thu Ngọc tát bạn trai giữa quán café, văn hóa Việt đã bị mai một trong giới trẻ ?”, khiến không ít người không hiểu rõ sự tình lại buông nhiều lời bình luận không tốt về cô, từ đó ảnh hưởng xấu tới danh tiếng của cô. Vì vậy cô Ngọc quyết định kiện tờ báo điện tử đã đăng hình ảnh gây ra nhiều hiểu lầm cho cô như vậy

II. Hình ảnh, quyền cá nhân đối với hình ảnh và yếu tố của hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong tình huống trên

1. Khái niệm hình ảnh

Trong thực tế hiện nay chưa có một định nghĩa nào có thể nói rõ lên khái niệm cụ thể về hình ảnh. Việc tìm hiểu “ hình ảnh” là gì phụ thuộc vào từng yếu tố trong từng lĩnh vực cụ thể nghiên cứu khác nhau, mỗi một lĩnh vực có một cách thức định nghĩa riêng phù hợp với chuyên môn nghành nghề đó.

Trong lĩnh vực Truyền hình: “Hình ảnh được hiểu là những gì chúng ta thấy được thông qua thị giác rồi sau đó chuyển về não giúp ta cảm nhận được những hình ảnh đó một cách chân thực nhất, từ đó đưa ra những phản xạ, cảm nhận và hình ảnh mà ta vừa thu được.”

Theo từ điển Tiếng việt, của Viện ngôn ngữ học 2000 giải thích hình ảnh là: “Hình người, vật, cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học 9 như máy ảnh hoặc để lại ấn tượng nhất định và tái hiện được trong trí óc, là khả năng gợi tả sống động trong cách diễn đạt”.

Do đó, có thể tạm hiểu rằng: “hình ảnh” chính là sự sao chép lại thế giới khách quan và được nhận thức lại bằng chính tư duy của con người hoặc bằng các cách thức sao chụp nguyên mẫu. Tuy nhiên, hình ảnh không tồn tại độc lập với đối tượng của sự phản ánh. Mặc dù hình ảnh khách quan về mặt nội dung khi phản ánh chân thực đối tượng song hình ảnh không bao giờ có thể hàm chứa hết các thuộc tính và quan hệ của đối tượng, nguyên mẫu. Hình ảnh không chỉ đơn thuần là sự sao chép nguyên mẫu mà qua sự sao chụp đó còn phải gây được sự chú ý với mắt nhìn, thể hiện được nội dung, lột tả được tinh thần của vật mẫu, thể hiện cá tính nghệ thuật và dấu ấn riêng.

2. Quyền cá nhân đối với hình ảnh

Quyền với hình ảnh của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ bằng việc quy định là một quyền nhân thân của cá nhân đó. Tại điều 31 BLDS 2005 quy định quyền của cá nhân đối với hình ảnh:

1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình
2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hình vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.

Thông qua những quy định trên ta có thể thấy quyền của cá nhân đối với hình ảnh ngày càng trở nên hoàn thiện trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cá nhân được bảo vệ hình ảnh dưới nhiều hình thức, dù là tranh vẽ, ảnh chụp hoặc quay phim. Ðiều quan trọng là hình ảnh phải được lấy từ một người và giống người đó. Tương tự như pháp luật các nước, pháp luật Việt Nam chỉ bảo vệ hình ảnh mà người trong ảnh có thể bị nhận dạng, không phụ thuộc việc ảnh có khuôn mặt hoặc ghi tên người đó hay không. Trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng (phục vụ cho việc điều tra, truy bắt tội phạm), việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý của người đó. 

Quyền cá nhân đối với hình ảnh là một quyền nhân thân của cá nhân đó và được quy định cụ thể tại Điều 31 Bộ luật Dân sự năm 2005 (nêu trên).

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2, khoản 3, Điều 25 Bộ luật Dân sự, khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền: Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại

Việc bảo vệ quyền nhân thân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, việc khởi kiện phải có căn cứ và đúng pháp luật. Người bị xâm hại hoàn toàn có thể khởi kiện ra Tòa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự hiện nay đòi hỏi người khởi kiện phải chứng minh được quyền nhân thân về hình ảnh bị vi phạm và hành vi sử dụng hình ảnh trái pháp luật của người vi phạm.

3. Các yếu tố của hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong tình huống trên

Căn cứ vào những điều khoản quy định tại Điều 31 Bộ Luật dân sự, trong tình huống nêu trên, người phóng viên có những hành vi vi phạm quyền hình ảnh như sau:

Thứ nhất, xét về mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật, người phóng viên có những hành vi sau:

- Chụp hình cô Nguyễn Thu Ngọc và anh Nguyễn Đình Hùng khi chưa được sự cho phép của cả nhân vật xuất hiện trong ảnh (cụ thể là hai nhân vật được nêu trên),
- Đăng tải bức ảnh này khi chưa được sự cho phép của chủ nhân bức ảnh.
- Sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
- Cuối cùng là hành vi dựng chuyện sai sự thật về bức ảnh bằng việc giật tít tiêu đề báo “Bất ngờ việc Thu Ngọc tát vào mặt bạn trai giữa quán cà phê”.

Qua những phân tích trên, ta thấy được hành vi vi phạm pháp luật về quyền nhân thân đối với hình ảnh của người phóng viên là lỗi cố ý trực tiếp:

+ Xét về mặt pháp lí, một người hành nghề phóng viên đều được giáo dục pháp luật căn bản khi hành nghề, đây là những quy định pháp luật bắt phải biết, và nếu hành nghề phóng viên thì chắc chắn phải biết. Trong tình huống nêu trên, người phóng viên nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của những hành động mình làm (biết rằng việc chụp ảnh đăng tải lên mạng khi chưa có sự cho phép của chủ nhân bức ảnh là trái pháp luật, hơn nữa bức ảnh này và nội dung bài báo lại làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của cô diễn viên Thu Ngọc… ).
+ Hành vi của phóng viên là hành vi có lỗi, do người phóng viên này cố ý thực hiện hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi của mình gây lên. Bằng chứng là phóng viên đã chọn góc chụp ảnh có tính mập mờ, nội dung bài báo có tính chất xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm của người khác mặc dù người phóng viên đó biết rõ sự thật không phải như vậy. Khi chụp ảnh và đăng tải bức ảnh cũng không xin ý kiến, sự đồng ý của nhân vật trong ảnh.

Thứ hai, mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật:

Dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật: hành động này trái với điều 31 BLDS năm 2005, được thực hiện bởi phóng viên có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, có lỗi cố ý trực tiếp và xâm hại đến quyền cá nhân về hành ảnh của cá nhân chị Nguyễn Thu Ngọc:

- Hậu quả pháp lí: trước tiên là hình ảnh của cô Ngọc bị phát tán, tiếp theo danh dự, nhân phẩm của cô Ngọc bị xâm hại qua việc phát tán hình ảnh.
- Quan hệ nhân quả ở đây chính là mối quan hệ giữa hành vi chụp ảnh, đăng tải và đưa tin sai sự thật về hình ảnh đối với hậu quả chi Ngọc bị bôi nhọ về danh dự, nhân phẩm.
- Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm: đó là tại quán cà phê và tại nơi mà người phóng viên viết bài và tòa soạn báo nơi phóng viên này công tác (địa điểm phát tán ảnh trên truyền thông).
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm là thời điểm từ lúc người phóng viên đó chụp ảnh cho đến lúc bài báo được đăng tải.
- Phương tiện vi phạm đó chính là chiếc máy ảnh (hoặc điện thoại) dùng để ghi lại hình ảnh chị Ngọc tát anh Hùng và chiếc máy tính, vật phát đi hình ảnh và bài viết được giật tít sai sự thật.
- Chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật được xác định là người phóng viên trực tiếp ghi lại hình ảnh của chị Ngọc và anh Hùng và đưa tin sai sự thật về sự việc và hình ảnh được ghi lại, đồng thời chủ thể vi phạm ở đây còn có người phát tán hình ảnh và bài viết, người biên tập báo và cho phép bài báo được đăng tải khi chưa có sự đồng ý của cá nhân chị Ngọc và anh Hùng.
- Khách thể của vi phạm pháp luật này chính là quyền cá nhân đối với hình ảnh của chị Ngọc được pháp luật bảo vệ và quy định tại điều 31 BLDS năm 2005, hay nói cách khác là quan hệ sở hữu giữa chị Ngọc và hình ảnh của chị do pháp luật quy định và bảo vệ đã bị người phóng viên xâm phạm.

* Ý nghĩa của việc phân tích những yếu tố của hành vi vi phạm pháp luật trong ví dụ trên:

Từ việc phân tích những yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật của chủ thể vi phạm, chúng ta chỉ ra được trách nhiệm pháp lí mà những chủ thể vi phạm này sẽ phải gánh chịu cũng như xác định rõ được mức độ vi phạm trong hành vi của từng chủ thể vi phạm. Cụ thể ở đây là đối với:

- Cá nhân người phóng viên có trách nhiệm gánh chịu hậu quả pháp lí đối với hành vi chụp hình ảnh khi chưa có sự cho phép của chị Ngọc, viết báo với nội dung không đúng sự thật, cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Tòa soạn báo nơi bài báo được đăng tải phải có trách nhiệm cụ thể trong việc quản lí nhân viên: phóng viên, biên tập báo, người làm công tác đăng tải hình ảnh, bài báo lên phương tiện truyền thông
- Thông qua những tình tiết trên ta có đủ căn cứ để chị Ngọc có thể yêu cầu Tòa án yêu cầu những chủ thể vi phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh (Điều 25 BLDS 2005) về việc chấm dứt hành vi vi phạm của mình (như xóa hình ảnh gốc của bức ảnh, xóa bài đăng trên mạng internet và đính chính lại những thông tin mà tờ báo đã đăng tải…) và đòi bồi thường về tinh thần cho mình theo quy định tại Điều 611 Bộ luật Dân sự và quy định tại khoản c, điểm 3.3 Mục 3, Phần II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005.

III. Mối quan hệ giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư; quyền của cá nhân đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín?

1. Mối quan hệ giữa quyền của cá nhân với hình ảnh của cá nhân và quyền của cá nhân với bí mật đời tư

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh có quan hệ chặt chẽ với quyền của cá nhân với bí mật đời tư. Trên thế giới, quyền của cá nhân đối với hình ảnh bắt đầu được quy định từ khoảng cuối thế kỷ 19. Từ nội dung ban đầu là bảo vệ tính mạng con người, quyền sống phát triển thành các quyền riêng rẽ, bảo vệ các giá trị trừu tượng như danh dự, nhân phẩm, quan hệ gia đình. Theo đó, cá nhân được pháp luật bảo vệ không gian riêng để phát triển, hình thành nhân cách. Các tác động từ bên ngoài, kể cả dưới hình thức quay phim, chụp ảnh, đều không được phép, trừ trường hợp vì lợi ích chung. Ngoài ra, cá nhân có quyền quyết định việc đưa ra xã hội hình ảnh của mình, vì việc này ảnh hưởng tới quan hệ của họ với người chung quanh, liên quan đến bí mật đời tư của họ. 

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền cá nhân đối với hình ảnh và quyền cá nhân đối với bí mật đời tư cũng được quy định rõ ràng. Có thể thấy quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền cá nhân đối với bí mật đời tư ngày càng trở nên hoàn thiện trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong khoản 2 Điều 31 Bộ luật dân sự quy định: “Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.”  Trong khoản 2 Điều 38 Bộ luật dân sự quy định: “Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phái được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đồng ý, trừ trường hợp thu thập công bố thông tin, tư liệu theo quy định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.” 

Có thể thấy hiện nay chưa có quy định nào chỉ rõ khái niệm quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền tuyệt đối của cá nhân nên chỉ có cá nhân đó mới có quyền quyết định việc thay đổi hình ảnh hay vẻ bề ngoài  của mình. Hình ảnh thường để lại dấu ấn nhiều hơn trong trí nhớ của con người nên ngay cả khi hình ảnh chụp một người từ phía sau vẫn có thể vi phạm quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh nếu qua hình ảnh đó có thể nhận ra người này nhờ vào hình thể, tư thế và kiểu tóc của họ. Vì vậy, trong một số trường hợp nhất định quyền của cá nhân đối với hình ảnh có liên quan đến quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư như trường hợp hình ảnh của cá nhân là hình ảnh riêng tư, cá nhân không muốn tiết lộ thì việc công bố hình ảnh của cá nhân đó là xâm phạm tới bí mật đời tư, hoặc là hình ảnh mà cá nhân giữ kín và việc giữ kín được pháp luật tôn trọng và bảo vệ hoặc cũng có thể là hình ảnh được thể hiện chung với người khác mà cá nhân không muốn tiết lộ, công khai và hơn thế nữa những hình ảnh đó bị tiết lộ có thể gây hậu quả về vật chất, tinh thần cho chủ thể của hình ảnh thì đây cũng được coi là “bí mật đời tư của cá nhân”. 

Như vậy, cá nhân có quyền khởi kiện hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư nếu một chủ thể nào đó công bố những hình ảnh của cá nhân mà cá nhân thực hiện việc giữ bí mật hình ảnh đó. Trong trường hợp này thì quyền bí mật đời tư có liên hệ với quyền đối với hình ảnh của cá nhân, hành vi sử dụng trái phép hình ảnh của cá nhân ở một góc độ nào đó được xác định là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư. Trên thực tiễn hiện nay có nhiều những hành vi sử dụng hình ảnh của cá nhân đã xâm phạm đến quyền bí mật đời tư như: hành vi quay phim, chụp ảnh, công bố những cảnh quay hoặc hình ảnh về đời sống riêng tư của một người mà mình đã từng quay, đã chụp được mà chưa được sự đồng ý của người quay, được chụp… 

Hầu hết các vụ kiện về hình ảnh hiện nay đều có liên quan đến quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư, và ví dụ mà nhóm chúng em đưa ra cũng không phải ngoại lệ. Có thể đưa ra những nhận xét cho ví dụ này như sau, thứ nhất,  điều 31 Bộ luật dân sự quy định việc "sử dụng" các hình ảnh nói chung cần có sự đồng ý của người có hình ảnh. Mà trong trường hợp này người viết bài báo đã chưa hỏi ý kiến của cô Ngọc mà đã cho đăng bài, hơn nữa lại còn gây hiểu nhầm sâu sắc cho cô Ngọc, làm lộ thông tin cũng như bí mật đời tư của cô Ngọc. Tuy nhiên Nghị định 51/2002/NÐ-CP ngày 26-4-2002 của Chính phủ đã điều chỉnh theo hướng tạo thuận lợi cho cơ quan báo chí, cụ thể theo Ðiều 5 khoản 3 Nghị định 51 quy định: “Không được đăng, phát tán ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của Tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án)”. Như vậy quy phạm pháp luật này đã loại bỏ yêu cầu phải có sự đồng ý của chủ nhân hay người được giao quyền sử dụng hình ảnh, đi ngược lại với tinh thần của Ðiều 31 Bộ luật dân sự và không đủ để bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh, đi ngược với xu thế đề cao quyền bí mật đời tư cá nhân. Việc cho phép cơ quan báo chí đăng phát hình ảnh về đời sống riêng tư mà không cần sự đồng ý của người đó cũng hoàn toàn không phù hợp với văn hóa Việt Nam. Một tờ báo nào đó có thể lợi dụng quyền này để xâm phạm bí mật đời tư, đăng phát các hình ảnh câu khách, chạy theo thị hiếu tầm thường của một số độc giả như trong ví dụ của cô Ngọc. Vì vậy, quyền của cá nhân với hình ảnh có mối quan hệ mật thiết đến quyền của cá nhân với bí mật đời tư. Nhận thức được điều này, các nhà làm luật sẽ ban hành được những văn bản pháp luật mang tính pháp lí, hợp lí cao hơn.

2. Mối quan hệ giữa quyền cá nhân đối với hình ảnh và quyền cá nhân đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín.

Hình ảnh của cá nhân là một phần riêng tư của mỗi người, tuy nó không có gì bí mật nhưng khi muốn sử dụng những hình ảnh đó cần phải hỏi ý kiến của người chủ tấm ảnh là người có mặt trong tấm hình vì về nguyên tắc thì mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình, có quyền cho hay không cho người khác sử dụng hình ảnh của mình. Hình ảnh của cá nhân cũng là một trong những yếu tố gắn với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân trong bức ảnh. Vì thế quyền của cá nhân đối với hình ảnh có quan hệ mật thiết đối với quyền của cá nhân đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Hình ảnh đó có thể cho những quan điểm tốt đẹp và tăng giá trị của cá nhân nhưng nó cũng có thể gây ra những ảnh hưởng xấu, làm mất danh dự uy tín của cá nhân. Hơn nữa hình ảnh trên báo chí, trang web được lan truyền đi rất nhanh có thể dẫn tới những suy diễn, tin đồn thậm chí có thể hạ thấp rất nhanh danh dự, uy tín, nhân phẩm của một cá nhân trong cộng đồng.

Đối với cô Nguyễn Thu Ngọc là một diễn viên nổi tiếng thì danh dự, nhân phẩm đối với cô là điều quan trọng và có sự ảnh hưởng lớn công việc diễn viên của mình. Đó là sự đánh giá của xã hội với một diễn viên về mặt phẩm chất, năng lực hình thành trong quá trình hoạt động nghệ thuật và cách cư xử của cá nhân cô trong thực tiễn. Nếu như trước đây cô xuất hiện trước công chúng và phương tiện thông tin đại chúng với những hình ảnh khi thành công trong sự nghiệp và cuộc sống,…tạo được tiếng tăm trước mọi người và được họ yêu mến, khâm phục bao nhiêu thì những bức ảnh không rõ nguồn gốc  phát tán trên những trang web giải trí với nội dung không đúng với sự thực: “ diễn viên Thu Ngọc tát vào mặt bạn trai giữa quán café” lại làm giảm sút, ảnh hưởng xấu đến danh tiếng của cô và hơn nữa là làm giảm sút danh dư, nhân phẩm và uy tín của một diễn viên nổi tiếng. Từ một diễn viên nổi tiếng có nhiều người hâm mộ giờ đây lại phải nhận những lời bình luận về những hành vi mà chính mình cũng không ngờ tới.

Như đã biết danh dự, nhân phẩm, uy tín của một con người mặc dù là những giá trị nhân thân không xác định được bằng tiền nhưng nó vô cùng quan trọng. Khi xâm phạm đến những giá trị này có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể, sự tổn hại mà chủ thể phải gánh chịu không những là thiệt hại về vật chất và còn những thiệt hại khác về tinh thần. Thực tế đối với diễn viên nổi tiếng Nguyễn Thu Ngọc, khi danh dự, nhân phẩm, uy tín của cô bị giảm sút sẽ làm mất những hợp đồng quảng cáo, vai diễn,…ảnh hưởng đến thu nhập, đó là những thiệt hại về vật chất và quan trọng hơn là chịu nhiều lời đánh giá không hay của cộng đồng, công chúng,…là những tổn hại rất lớn về tinh thần.

Quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín được quy định trong hiến pháp 1992: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm”, nó đã thể hiện sự tôn trọng của chúng ta đối với quyền này, đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong việc ban hành các quy định cụ thể được thể hiện trong luật hình sự, luật dân sự,…Cụ thể, trong bộ luật dân sự năm 2005, quyền của cá nhân đối với hình ảnh được quy định tại điều 31 và quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định tại điều 35. Tại khoản 3 điều 31 có quy định “Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”. Nhưng hiện nay việc đăng những hình ảnh có nội dung bôi xấu danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân lại diễn ra khá phổ biến mà cô Nguyễn Thu Ngọc là một trong những trường hợp đó. Một trong số đó có sử dụng những hành vi cá nhân như phát tán những hình ảnh nhạy cảm của cá nhân hay cắt ghép ảnh, đưa những hình ảnh không lành mạnh nhằm bôi nhọ danh dự của cá nhân,…

Nhìn vào thực tế trong thời đại số hóa thì việc sử dụng hình ảnh của cá nhân để xâm phạm, bôi nhọ danh dư, nhân phẩm, uy tín của một người được thực hiện vô cùng dễ dàng dựa vào công nghệ máy tính, các phương tiện thông tin đại chúng và sự phát triển nhanh chóng của các mạng xã hội, vì vậy bảo vệ quyền cá nhân đối với hình ảnh đã góp phần hạn chế hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín.

Nghị định 51/2002/NĐ-CP ngày 26-4-2002 của Chính phủ đã điều chỉnh theo hướng tạo thuận lợi cho các cơ quan báo chí “không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dư, nhân phẩm của cá nhân đó”, trừ một số trường hợp cụ thể. Khoản 3 điều 5 đã loại bỏ yêu cầu phải có sự đồng ý của chủ thể hay người được giao quyền sử dụng hình ảnh và quy định trên không phù hợp với điều 31 Bộ Luật dân sự và không đủ để bảo vệ quyền cá nhân đối với hình ảnh. Một tờ báo nào đó có thể lợi dụng quyền này để xâm phạm bí mật đời tư, xúc phạm đến danh dự nhân phẩm, uy tín của cá nhân, đăng phát các hình ảnh câu khách, chạy theo thị hiếu tầm thường của một số độc giả. Như vậy có thể nhận thấy việc sử dụng trái phép hình ảnh của cá nhân trong nhiều trường hợp đã gây ra những hậu quả to lớn. Trong ví dụ trên cô Ngọc chính là nạn nhân, chỉ vì thông tin, hình ảnh sai lệch mà cô bị mất uy tín, trở thành một người mang danh “tát bạn trai”. Đặc biệt, nó không những ảnh hưởng đến nhân phẩm, danh dự, công việc của chính cô mà nó còn ảnh hưởng đến những người thân xung quanh, ở đây là anh Nguyễn Đình Hùng – bạn trai của cô cũng sẽ bị những ảnh hưởng từ công chúng do sự hiểu lầm mà bức ảnh gây ra.

Vì vậy với những quy định của pháp luật nêu trên đã hạn chế được phần nào việc sử dụng hình ảnh trái phép làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người trong ảnh. Khi bảo vệ được quyền của cá nhân đối với hình ảnh thì cũng đã phần nào bảo vệ được quyền của cá nhân với danh dự, nhân phẩm và uy tín. Nắm bắt rõ mối quan hệ này, Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã bổ sung thêm quy định mới về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại khoản 3, Điều 31 như sau: “Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, và uy tín của người có hình ảnh”.

IV. Giới hạn của quyền cá nhân đối với hình ảnh

Quyền của cá nhân với hình ảnh có thể bị giới hạn bởi quyền nhân thân đối với hình ảnh cá nhân trong mối quan hệ với quyền được thông tin hoặc trong trường hợp xung đột quyền, lợi ích chung, quyền của bên thứ 3, trong trường hợp cá nhân từ bỏ quyền đối với hình ảnh. Vì vậy, chúng ta sẽ xét từng trường hợp sau:

1. Giới hạn của quyền nhân thân đối với hình ảnh cá nhân trong mối quan hệ với quyền được thông tin  

Quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân có mối quan hệ với quyền được thông tin, nên ít nhiều cũng bị giới hạn. Quyền được thông tin theo Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền được quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm và không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng, thông tin bằng bất kì phương tiện truyền thông nào không có biên giới”. Như vậy quyền tự do thông tin bao gồm những nội dung: tự do tìm kiếm thông tin và tự do tiếp nhận thông tin. 

Tại điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, có quyền được thông tin”.  Trong hoạt động báo chí, báo chí cung cấp rất nhiều thông tin, hình ảnh mọi mặt của đời sống. Các bản tin truyền hình tập chung chủ yếu vào hình ảnh. 

Thực tế hiện nay cũng rất ít trường hợp việc đăng hình ảnh trên báo chí có sự cho phép của chủ nhân bức ảnh đó. Tại điều 31 BLDS quy định việc "sử dụng" các hình ảnh của cá nhân nói chung cần có sự đồng ý của cá nhân đó. Bàn về điều này, Nhà báo Lê Thanh Lương, Trưởng ban Báo điện tử, Báo Pháp luật Việt Nam có ý kiến: Tôi cho rằng nếu hiểu cứng nhắc cứ sử dụng bất cứ hình ảnh nào của cá nhân đều phải xin phép là rất máy móc. Đồng ý pháp luật có quy định cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, nhưng không có nghĩa chỉ khi nào cá nhân đó đồng ý thì báo chí mới được đăng tải hình ảnh của cá nhân đó. Từ thực tế “bếp núc” tại tòa soạn của mình, tôi chỉ lưu ý anh em khi sử dụng các ảnh cá nhân trong các trường hợp sau thì cần chú ý không dùng một cách tùy tiện.

Nói về sự không tùy tiện khi sử dụng hình ảnh trong báo chí thì vấn đề này đã được thể hiện rõ trong Điều 5 Nghị định 51/2002/NĐ – CP ngày 26/04/2002 của Chính phủ. Cụ thể xét trong tình huống nhóm em đưa ra thì tại khoản 3 điều 5 quy định báo chí: “ Không được đăng hình ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó ( trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người có lệnh truy nã, những người phạm tội trong các vụ án đã bị tuyên án). Theo quy định này, báo chí có quyền đăng ảnh cá nhân mà không phải xin phép nhưng phải có ghi chú thích hợp và không làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người đó.

Như vậy có thể thấy trong hoạt động báo chí, quyền được thông tin của công chúng đã hạn chế quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh của mình, hình ảnh của cá nhân được sử dụng mà không cần có sự cho phép của người đó trong những trường hợp nhất định theo quy định của luật báo chí. Tuy nhiên, quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân vẫn phải được đảm bảo chặt chẽ.

Từ những phân tích ở trên thì có thể kết luận rằng: trong tình huống được đưa ra, quyền của diễn viên Thu Ngọc đối với hình ảnh không hề bị giới hạn bởi  quyền được thông tin ( trong lĩnh vực báo chí). Bởi việc đăng bức ảnh trên trang báo điện tử vừa không được cô Ngọc cho phép lại đưa thông tin một cách không rõ ràng, chính xác khiến cho hình tượng của cô Ngọc đã bị ảnh hưởng lớn theo hướng tiêu cực và làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cô.

2. Giới hạn quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong trường hợp xung đột quyền, lợi ích chung, quyền của bên thứ 3, trong trường hợp cá nhân từ bỏ quyền đối với hình ảnh.

a. Trường hợp xung đột với quyền lợi chung, quyền lợi của bên thứ ba

- Quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh bị giới hạn trong trường hợp xung đột với quyền lợi chung. Nghĩa là quyền đối với hình ảnh có sự khác biệt về giá trị văn hóa, quan điểm và yếu tố xã hội góp phần làm nảy sinh các xung đột với các quyền lợi chung của cộng đồng. Người chụp ảnh không nhằm ghi hình đương sự mà ghi hình phong cảnh hoặc các sự kiện đang diễn ra. Đương sự chỉ là một bộ phận bổ trợ trong phong cảnh hoặc sự kiện đó. 

Tuy nhiên trong tình huống đưa ra, người chụp ảnh tập trung mô tả đương sự ( ở đây là cô Ngọc), trong đó phong cảnh và sự kiện chỉ đóng vai trò làm nền thì vấn đề quyền nhân thân đối với hìn hảnh sẽ được đặt ra (đương sự bị chụp cận cảnh và tách hẳn với bối cảnh xung quanh). Vì vậy xét trường hợp này, quyền vởi hình ảnh của Thu Ngọc cũng không bị giới hạn. 

- Trường hợp xung đột với người thứ ba có nghĩa là muốn đề cập đến khía cạnh đối với những bức ảnh chụp chung với mọi người như chụp với bạn bè, gia đình, hoặc với những người nổi tiếng... Theo luật, việc đăng ảnh cần phải xin phép những người có mặt trong bức hình đó. Tuy nhiên, trong trường hợp khi chúng ta đứng vào bức ảnh đó, chụp chung với mọi người thì mặc nhiên thừa nhận là chúng ta đã chấp nhận là người đó được phép đăng ảnh của mình. Việc này không gây thiệt hại gì cho người có mặt trong bức ảnh. Còn đối với những bức ảnh chụp lén lút như trong tình huống thì Thu Ngọc vẫn hoàn toàn có quyền không cho phép đăng tải bức ảnh đó lên.  

b. Đương sự từ bỏ quyền của mình đối với hình ảnh

Quyền nhân thân đối với hình ảnh là một quyền cơ bản của con người nên cá nhân có toàn quyền xử sự đối với hành vi xâm phạm tới hình ảnh của mình. Nhưng một khi đương sự từ bỏ quyền này của mình thì mặc nhiên quyền nhân thân đối với hình ảnh đó của họ cũng bị từ bỏ. Trường hợp này không xảy ra vì vậy quyền cá nhân với hình ảnh không bị giới hạn trong trường hợp này.

KẾT LUẬN

Qua việc giải quyết bài tập trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về nội dung cũng như ý nghĩa của một quyền vô cùng quan trọng và thiết yếu của mỗi người, đó là quyền cá nhân đối với hình ảnh. Từ đó có những kiến thức nền tảng nhằm bảo vệ những quyền chính đáng của mình, đảm bảo quyền lợi của mình không bị xâm phạm một cách dễ dàng trong thời đại công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng như hiện nay.

Nếu muốn download không mất phí, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Đỗ Đen đã chia sẻ!

No comments:

Post a Comment