08/04/2014
Bài tập học kỳ Tố tụng Hình sự - Tạm giữ trong Tố tụng Hình sự - Bài 2
A. Lời Mở Đầu 

Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình tố tụng hình sự là điều cần thiết,trong những biện pháp ngăn chặn đó thì tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam là một trong những biện pháp ngăn chăn quan trọng và hữu hiệu. 

Vậy biện pháp tạm giữ được quy định như thế nào trong luật tố tụng hình sự và việc áp dụng biện pháp đó như thế nào trong thực tế đang là vấn đề cần được quan tâm của xã hội. Do đó, bài viết dưới đây em xin được tìm hiểu về vấn đề : tạm giữ trong tố tụng hình sự và một số đề xuất hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.

B. Nội Dung 

I.  Những  quy  định  về  biện  pháp  ngăn  chặn  tạm  giữ  trong  tố  tụng hình sự. 

1. Khái niệm tạm giữ. 

Căn  cứ  những  quy  định  tại  Điều  86  BLTTHS  và  xuất  phát  từ  thực  tiễn  áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, có thể đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn chặn tạm giữ như sau: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do cơ quan và người có thẩm quyền theo pháp luật áp dụng đối với những người bị bắt  trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã,  người  phạm  tội  tự  thú,  đầu  thú  nhằm  ngăn  chặn  tội  phạm, tạo  điều  kiện  cho việc xử lý tội phạm được chính xác cao kịp thời.Qua đó tạo điều kiện đảm bảo cho cơ quan điều tra có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu. Trên cơ sở đó ra các quyết định tố tụng như khởi tố bị can,tạm giam áp dụng các biện pháp 
ngăn chặn khác hoắc trả tự do cho họ. 

Mục đích tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi pham tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người tạm giữ. Áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt. 

2. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ.

Theo khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: “tạm giữ có thể được áp dụng  đối  với  người  bị  bắt  trong  trường  hợp  khẩn  cấp,  phạm  tội  quả  tang,người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Như vậy theo quy định của pháp luật thì đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ bao gồm: 

- Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp thì quyết định bắt khẩn cấp cơ quan điều tra xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn thoát hoặc cản trở điều tra. 

-  Người  phạm  tội  tự  thú  là  người  đã  thực  hiện  hành  vi  phạm  tội  nhưng  chưa  bị phát hiện, nay ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về việc phạm tội của mình. Đây là người đã thực hiện tội phạm nhưng chưa bị cơ quan có thẩm quyền xác định đó là ai mặc dù vụ án đã bị phát hiện,như các trường hợp cơ quan bảo vệ pháp luật biết vụ án xảy ra (đã hoặc chưa khởi tố vụ án) nhưng chưa biết ai là người thực hiện hành vi phạm tội hoặc vụ án chưa phát hiện được do xảy ra trong rừng sâu. 

-  Người  phạm  tội  đầu  thú:  là  người  đã  thực  hiện  tội  phạm  và  đã  bị  phát  hiện; người đã bi tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt trốn khỏi nơi giam giữ, người có nghĩa vụ phải chấp hành án phạt tù nhưng đã trốn thoát nơi cư trú nay ra đầu thú. Đặc điểm chung của người đầu thú là cơ quan bảo vệ pháp luật đã biết nhân than của họ và họ phạm tội gì? Trốn từ lúc nào? Thực chất của việc đầu thú là đầu hàng cơ quan pháp luật, biết được rằng mình không thế thoát được nên đã trình diện và khai báo với cơ quan nhà nước về việc phạm tội của mình để mong được hưởng sự khoan hồng, làm nhẹ tội. 

- Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai,cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt.Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.

***  Chính  việc  quy  định  1  cách  cụ  thể  các  trường  hợp  áp  dụng  như  trên  đã  tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng đối tượng cần tiến hành bắt giữ trên thực tế, tránh nhầm lẫn. Tuy nhiên không phải bất cử người nào bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quá tang, tự thú, đầu thú hoặc bắt người theo quyết định truy nã đều bị ra lệnh tạm giữ. Nếu phạm tội ít nghiêm trọng, sự việc đơn giản không có căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn, thông cung cản trở việc điều tra hoặc tiếp tục việc phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng thì có thể không bị áp  dụng  biện  pháp  ngăn  chặn  tạm  giữ.Trong  trường  hợp  này  cơ  quan  có  thẩm quyền  phải  nhanh  chóng  lấy  lời  khai,  xác  minh  những  tình  tiết  có  liên  quan  đến hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội để làm căn cứ ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người đó.

Bên  cạnh  đó,  nhà  nước  cũng  đã  thể  hiện  sự  quan  tâm  đến  việc  tạm  giữ  người chưa thành niên phạm tội khi đưa ra quy định chi tiết: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới  16 tuổi  có thể bị  tạm giữ nếu  có đủ  căn  cứ  tại điều 86  BLTTHS năm  2003 nhưng  chỉ  trong  truờng  hợp  phạm  tội  rất  nghiêm  trọng  do  cố  ý  hoặc  đặc  biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. (Điều 303 BLTTHS). 

-  Khi  người  bị  tạm  giữ  có  con  chưa  thành  niên  dưới  14  tuổi  hoặc  có  người  thân thích  là người tàn tật,  già yếu không có người  chăm  sóc  thì  ra  cơ  quan  có  thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm đối với họ. Trong trường hợp người bị tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có nhiệm vụ trông nom, bảo quản. Quy định này thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ.

- Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, đây là quy định mới so với BLTTHS 1988. Đây là  một ưu điểm vì bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, quy định chặt chẽ hơn việc tạm  giữ người, hạn  chế việc  phải bồi  thường  thiệt  hại  cho người  bị bắt oan. 

3.Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ.

Theo  khoản  2,  Điều  86  BLTTHS  quy  định:  “ Những  người  có  quyền  ra  lệnh  bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Như vậy, những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp bao gồm:

-  Thủ  trưởng,  phó  thủ  trưởng  cơ  quan  điều  tra  các  cấp  (cơ  quan  điều  tra  trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao…)

- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.

- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.

- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.

*** Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị  bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền. 

Cũng theo quy định này, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn  là  những  người  đại  diện  của  các  cơ  quan  tiến  hành  tố  tụng  mà  bao  gồm  cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang. 

4.Thủ tục tạm giữ. 

Thủ tục tạm  giữ bao  gồm:  quyết định  tạm  giữ,  các  công việc  mà  người thi  hành quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người. 

Thủ tục tạm giữ được quy định tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS năm 2003. Việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải nêu lí do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày tháng hết tạm giữ và giao cho người tạm giữ một bản.

Trong thời hạn 12 giờ kể tư khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết thì viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ việc tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Còn nếu xét thấy việc tạm giữ có căn cứ hoặc cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn. 

Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:

- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội qủa tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú. 

-  Người  bị  tạm  giữ  có  những  vi  phạm  nhỏ  (vi  phạm  hành  chính),  tính  chất  nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến lúc phải truy cứu trách nhiệm hình sự. 

- Người bị tạm giữ là người là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc pham tội rất nghiêm trọng do vô  ý; người  từ  đủ  16  tuổi  đến  dưới 18 tuổi phạm  tội  ít nghiêm  trọng,  phạm  tội nghiêm trọng do vô ý. 

-  Người  bị  tạm  giữ  trong  trường  hợp  phạm  tội  qủa  tang  nhưng  sự  việc  phạm  tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và  không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở việc điều tra. 

- Người bị tạm giữ bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội qủa tang nhưng đã có đủ tài liệu, chứng cứ kết luận họ không phạm tội. 

*** Ngoài ra, người thi hành quyết định tạm giữ có trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ do BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 2, 3 Điều 48. Đó là,người bị tạm giữ có quyền: được biết lí do mình bị tạm giữ,được giải  thích  về  quyền  và  nghĩa  vụ;trình  bày  lời  khai;  tự  bào  chữa  hoặc  nhờ  người khác bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu; khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Người bị tạm giữ có nghĩa vụ phải thực hiện các quy định về tạm giữ của pháp luật quy định. 

5. Thời hạn tạm giữ.

Theo quy định tại Điều 87 BLTTHS năm 2003 :Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt.

Thời điểm tính thời hạn tạm giữ được tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Thời điểm cơ quan nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp tính từ khi người bị bắt giải tới trụ sở cơ quan điều tra.Trong trường hợp bắt người qủa tang hoặc bị truy nã, thời điểm tính thời hạn tạm giữ được tính từ khi công dân hoặc tổ chức giao người bị bắt cho cơ quan điều tra. 

+) Trong trường hợp cần thiết, sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hoặc cần thời gian để làm rõ hành vi, làm rõ căn cứ, lí lịch của người bị tạm giữ thì người đã ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày.

+) Trong trường hợp đặc biệt như đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự khác có nhiều người tham gia, sự việc cần xác minh rất phức tạp mặc dù đã gia hạn lần thứ nhất nhưng vẫn chưa làm rõ sự việc thì người ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn lần thứ hai và cũng không được quá ba ngày. 

*** Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải trả tự do cho người bị tạm giữ sau khi hết hạn tạm giữ trước đó.Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Khi hết thời hạn tạm giữ mà  không đủ căn cứ  khởi tố  bị  can thì phải  trả  tự do ngay  cho  người  bị tạm  giữ. Thời hạn tạm giữ được tính trừ vào thời hạn tạm giam.

6. Chế độ tạm giữ. 

Tạm  giữ  không  phải  là  hình  phạt  mà  là  biện  pháp  ngăn  chặn  trong  tố  tụng  hình sự.Việc áp dụng biện pháp tạm giữ không phải nhằm trừng phạt người phạm tội mà để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Bộ luật tố tụng hình sự quy định không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tạm giữ là người chưa bị coi là có tội. Do đó chế độ tạm giữ phải khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. 

-  Điều  89  BLTTHS  năm  2003  quy  định:  “chế  độ  tạm  giữ,tạm  giam,  chế  độ  sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của chính phủ” 

Chính phủ quy định rõ chế độ tạm giữ bao gồm: nơi tạm giữ, chế độ sinh hoạt,…và các  chế  độ  khác  tại  điều  26,  28,  29,  30,  31  Nghị  định  số  89/1998/NĐ-CP  ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban hành quy chế về tạm giữ,tạm giam. Các cơ quan chức năng quản lí các nhà quản lí có quyền và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật chế độ đối với người bị tạm giữ tạm giam. Cụ thể là chế độ ăn, ở, sinh hoạt, phòng bệnh, chữa bệnh, nhận quà tiếp tế của gia đình và các chế độ khác. 

7. Những biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản đối với người bị tạm giữ.

Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ không chỉ trực tiếp tác động đến những quyền lợi của người bị tạm giữ mà còn liên quan đến những người thân thích của họ.  Để  thực  hiện  chính  sách  nhân  đạo  và  bảo  đảm  những  lợi  ích  hợp  pháp  của người bị tạm giữ, BLTTHS năm 2003 đã quy định việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ tại Điều 90. 

- Tại khoản 1 Điều 90 BLTTHS quy định trách  nhiệm bảo đảm chăm nom người thân thích của người bị tạm giữ. Theo đó, khi áp dụng biện pháp tạm giữ nếu người tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những  người  đó  cho  những  người  thân  thích  chăm  khác  nom.  Trong  trường  hợp người tạm  giữ không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm sóc. 

-  Khoản  2  Điều  90  quy  định  trách  nhiệm  bảo  quản  tài  sản  cho  người  bị  tạm  giữ. Theo  đó,  khi  áp  dụng  biện  pháp  tạm  giữ,nếu  người  tạm  giữ  có  nhà  hoặc  tài  sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ sẽ giao tài sản cho người thân thích hoặc bất cứ người nào khác trông nom, bảo quản theo yêu cầu của người bị tạm giữ. Nếu người tạm giữ không chỉ ra được người tin tưởng để giao trông nom, bảo quản thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải tiến hành niêm phong và bảo quản cho đến khi người được tạm giữ được trrar tự do hoặc bản án có hiệu lực pháp luật. 

Sau  khi  đã  áp  dụng  biện  pháp  bảo  hộ  đối  với  người  than  và  tài  sản,  cơ  quan  ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho người bi tạm giữ những biện pháp đã được áp dụng. 

II. Một số hạn chế về các quy định tạm giữ trong tố tụng hình sự và đề xuất hướng hoàn thiện.

1. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay.

Mặc dù BLTTHS năm 2003 đã có sửa đổi bổ sung rất nhiều so với BLTTHS năm 1988, và đã có sự chặt chẽ hơn, đánh dấu bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa luật Tố tụng hình sự ở nước ta. Cùng với các chế độ khác, chế độ tạm giữ cũng từng bước hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp tạm giữ những năm gần đây còn nhiều bất cập, đã gây không ít khó khăn cho những hoạt động áp dụng các quy định trên. Có thể kể đến một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như sau: 

+)  Do  nhận  thức,  trình  độ  của  các  cơ  quan,  đơn  vị  và  những  cá  nhân  có  trách nhiệm, quyền hạn, cũng như nhận thức của những người bị áp dụng thi hành lệnh tạm giữ còn có nhiều hạn chế.
+) Công tác kiểm sát việc tuân thủ pháp luật tại nơi tạm giữ không được tiến hành một cách thường xuyên và đều khắp. 
+)  Điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng không được đảm bảo;
+)  Việc theo dõi, quản lí người bị tạm giữ chưa chặt chẽ dẫn đến  nhiều trường hợp bỏ trốn… 
+)  Do chưa quy định hết những đối tượng tạm giữ…  

Đồng thời cũng do phần lớn các quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giữ chưa hoàn thiện và chặt chẽ, còn có sự chồng chéo hoặc chưa bao trùm hết các giai đoạn tố tụng. Do đó, các quy định tạm giữ chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của thực  tiễn  đấu  tranh  và  phong  ngừa  tội  phạm  ở  nước  ta  trong  giai  đoạn  hiện nay,chưa đảm bảo một cách hiệu quả các quyền tự do, dân chủ của công dân. 

2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự trên thực tế

2.1. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ. 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Tuy nhiên, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Chính vì vậy,việc khoản 1 Điều 86 quy định “tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Như vậy vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt. 

Do  đó,  quy  định  này  là  không  hợp  lí,  luật  cần  quy  định  rõ  ràng,  tách  bạch  hơn trường hợp này để đảm bảo cho quyền cho người tự thú trong việc được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. 

2.2. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ. 

Để đảm bảo cho yêu cầu kịp thời đấu tranh chống tội phạm trên các vùng biển của đất nước, lực lượng cảnh sát biển đã được thành lập và lực lượng này cũng có thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp và thẩm quyền ra lệnh tạm giữ. Khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: “những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 điều 81 bộ luật này. Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”. Việc quy định bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho chỉ huy vùng cảnh sát biển là hoàn toàn hợp lí, vì xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì thủ trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. 

*** Tuy nhiên điều 81 BLTTHS năm 2003 lại không quy định thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp cho lực lượng này, nhưng khoản 2 điều 86 BLTTHS lại quy định cho lực lượng này ra quyết định tạm giữ. Đồng thời việc chỉ huy vùng cảnh sát biển có thẩm  quyền  ra  quyết  định  tạm  giữ  trong  những  trường  hợp  nào?,  với  những  đối tượng nào? cũng chưa được quy định rõ ràng. Chính vì vậy về đối tượng cũng như thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc. Do đó, các nhà làm luật cũng cần lưu ý đến quy định này và cần có hướng dẫn rõ ràng hơn.  Ví dụ, khi pháp luật đã quy định cho chỉ huy cảnh sát biển được quyền ra lệnh tạm giữ thì nên quy định cho họ thêm  thẩm  quyền  ra  lệnh  bắt  người  trong  trường  hợp  khẩn  cấp  để  có  thể  làm  rõ những  trường  hợp  cụ  thể  và  đối  tượng  bị  áp  dụng  tạm  giữ  theo  thẩm  quyền  của người này. 

2.3. Thời hạn tạm giữ. 

Khoản  1  Điều  87  BLTTHS  quy  định:  “Thời  hạn  tạm  giữ  không  được  quá  ba ngày,kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt”. Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tình thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì các quy định trên vẫn còn nhiều vướng mắc.

Thứ nhất : Theo quy dịnh tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn tạm giữ  không  được  quá ba  ngày  kể  từ  ngày  cơ  quan điều tra  nhận  người bị bắt.  Có nghĩa là thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Bên cạnh đó, tại mục c khoản 2 Điều 81 BLTTHS năm 2003 có quy định người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng thì có quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp và có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 bộ luật này. Trong trường hợp tàu bay thì có thế về kịp thời hạn để giao cho cơ quan điều tra nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thế về kịp thời hạn để giao cho cơ quan điều tra thì thời hạn tạm giữ được tính với người bị bắt sẽ như thế nào? Về  vẫn đề này  vẫn  chưa  được quy  định  cụ  thể.  Do đó  pháp luật  cần  phải  nhanh chóng có quy định cụ thể  về hướng giải quyết.

Thứ hai: Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mặt khác, theo quy định tại điều 86 bộ luật này, tạm giữ có thế áp dụng đối với người phạm tội tự thú hoặc đầu thú, và như chúng ta đã biết thì người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội bị bắt  mà  họ  tự  nguyện  trình  diện,  ra  khai  báo  hành  vi  phạm  tội  của  mình  nên  họ không phải là người bị bắt. Vậy thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào?, pháp luật chưa có quy định cụ thể. Vì vậy cần sửa đổi bổ sung quy định về thời hạn đối với người tự thú, đầu thú. 

Thứ ba: Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy ở đây “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Là bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này cũng chưa có quy định cụ thể, do vậy cần phải quy định rõ ràng hơn, tránh gây sự chồng chéo vướng mắc trong khi áp dụng luật.  

Nên sửa cụm từ “ba ngày” trong khoản 1 Điều 87 thành 72 giờ để hợp lí hơn hoặc giải thích rõ ràng khái niệm “ngày” để có sự thống nhất. 

Thứ tư: Theo quy định tại khoản 4 điều 87 BLTTHS năm 2003, thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Đây là quy định có tính nhân đạo rất rõ nét. 

Tuy nhiên vấn đề đặt ra là khi bị can bị tạm giam thì việc tính trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam như thế nào khi viết lệnh tạm giam? Đã có cơ quan tố tụng hướng dẫn cấp dưới cách viết lệnh tạm giam bằng cách ghi vào lệnh tạm giam thời hạn tạm giam sẽ được tính kể từ ngày bị can bị tạm giữ, với lí do ghi như vậy sẽ trừ ngay được vào thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam. Thực ra đây chỉ đơn 
thuần là kĩ thuật ghi văn bản, ghi như thế nào để có thể trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan giam giữ người thực hiện đúng quy định của pháp luật về tính thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam.  

Nội dung này cho thấy rằng, khi ghi thời hạn tạm giam trong lệnh tạm giam, nếu bị can trước đó có bị tạm giữ thì cần phân biệt các trường hợp sau đây: 

-  Một là bị can bị tạm giữ và sau đó bị tạm giam, thời hạn tạm giam nối liền ngay thời hạn tạm giữ.

-  Hai là sau khi bị tạm giữ, mặc dù người đó bị khởi tố bị can nhưng không bị tạm giam ngay mà sau một thời gian mới bị tạm giam. Trường hợp này giữa thời hạn tạm giam với thời hạn tạm giữ không liền nhau

Việc ghi lệnh tạm giam để có thể trừ đi thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam trong hai trường hợp nói trên khác nhau.Với trường hợp thứ nhất,việc tính thời hạn tạm giam có thể tính từ ngày người đó bị tạm giữ. Trường hợp thứ hai thì sau khi ghi thời hạn tạm giam bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tính từ khi bị cáo bị bắt tạm giam,cần ghi rõ có trừ đi thời hạn bị cáo bị tạm giữ vào trong thời hạn tạm giam. Với hai cách ghi như vậy sẽ giúp cho người thi hành lệnh tạm giam biết được giới hạn thời hạn của việc tạm giam để thi hành đúng pháp luật. 

*** Thời hạn, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ phải được quy định phù hợp với cả tiến trình tố tụng, cũng như với giai đoạn tố tụng, để biện pháp này thực sự phát huy được vai trò, hiệu quả thực sự trong việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lí nghiêm minh và kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt  tội  phạm,  không  làm  oan  người  vô  tội,  không  được  để  tồn  tại  những  khoảng trống trong quá trình tố tụng vừa gây cản trở các cơ quan tiến hành tố tụng,vừa tạo cho các hành vi vi phạm pháp luật nảy sinh. 

2.4. Về gia hạn tạm giữ.

+) Khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trường hợp cần thiết người ra quyết  định  tạm  giữ  có  thể  gia  hạn  tạm  giữ  nhưng  không  được  quá ngày;trong trường  hợp  đặc  biệt,người  ra  quyết  định  tạm  giữ  có  thể  gia  hạn  tạm  giữ  hai  lần nhưng không được quá 3 ngày…”

Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quá hơn.Tuy nhiên luật  cần  phải  nêu  rõ:  trong  trường  hợp  cần  thiết  là  ra  quyết  định  tạm  giữ  là  những trường hợp nào, mức độ cụ thể ra sao. Vì luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy định này trong việc gia hạn tạm giữ. 

Mặt khác,  cần quy  định  rõ  hơn  “trong  trường  hợp đặc  biệt, người ra  quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không quá ba ngày”. Nếu quy định như trên thì nên hiểu “hai lần” là mỗi lần không được quá ba ngày hay nên hiểu “hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó là không quá ba ngày? Trong thực tế sẽ có nhiều người hiểu sai lệch quy định của luật. Do đó, bộ luật tố tụng hình sự 
cần có sự quy định rõ ràng hơn.

+)  Khoản 3 Điều 87 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong khi tạm giữ, nếu không có căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”

Việc luật quy  định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khới tố bị can là hoàn toàn hợp lí. Tuy nhiên luật lại không quy định thẩm quyền trả tự  do  và  thủ  tục  trả  tự  do  cho  người  bị  tạm  giữ.  Do  đó  câu  hỏi  đặt  ra  là:  trong trường hợp phải trả tự do cho người bị tạm giữ thì ai có quyền trả tự do cho họ? 

Phải chăng là người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người bị tạm giữ hay là một chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do cho họ được quy định như thế nào? Điều này cũng cần được quy định rõ ràng hơn 

*** Bên cạnh đó thì các quy định về tạm giữ cần phải được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai gần, hạn chế việc liên tục sửa đổi, bổ sung BLTTHS nói chung và các chế định về biện pháp ngăn chặn tạm giữ nói riêng. Từ đó tạo ra sự ổn định nhất quán trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. 

Các quy định về tạm giữ tạm giữ trong tố tụng hình sự là cơ sở pháp lí cần thiết cho hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm. Song để áp dụng đúng đắn, đầy đủ và thống nhất các quy định này, các cơ quan có thẩm quyền cần rà soát các văn bản hướng dẫn hiện hành, loại bỏ các văn bản còn chồng chéo hoặc không còn phù hợp. Đồng thời ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn áp dụng luật.

***  Để  nâng  cao  hiệu  quả  các  biện  pháp  tạm  giữ  ngoài  việc  không  ngừng  hoàn thiện các quy định của pháp luật,các cơ quan tiến hành tố tụng và nhưng người tiến hành tố tụng cần phải kịp thời và tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật tránh việc sử dụng các biện pháp này như một phương tiện hữu hiệu để chứng minh tội phạm và xác định sự thật của vụ án. Cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tạm giữ có đủ trình độ,năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. 

Kết luận

Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn,biện pháp tạm giữ chiếm một vị trí quan trọng. Chúng là sự thể hiện khá rõ nét của biện pháp cưỡng chế nhà nước và là một phương tiện hữu hiệu để cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành nhiệm vụ của mình.Nhìn  chung,hoạt  động  áp  dụng  các  biện  pháp  ngăn  chặn  nói  chung  và  biện pháp ngăn chặn tạm giữ nói riêng trong thời gian qua đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự,bảo đảm các quyền của công dân và cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm.Tuy nhiên bên cạnh kết quả đã đạt được,quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ đã bộc lộ những hạn chế làm giảm đi hiệu quả của quá trình tố tụng.trước yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước,diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm đòi hỏi phải tiếp tục và kịp thời hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật và trong đó có biện pháp ngăn chặn tạm giữ. 

Danh mục tài liệu tham khảo.

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt nam. Nxb. Tư pháp - Hà nội, Năm 2006.
2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
3. Hỏi đáp về bắt, tạm giữ, tạm giam, giáo dục, giáo dưỡng và thi hành án hình sự Nxb. Lao động - Xã hội.
4.  Các  biện  pháp  ngăn  chặn  bắt,  tạm  giữ,  tạm  giam  trong  tố  tụng  hình  sự  Việt Nam,thực trạng nguyên nhân và giải pháp. - Luận văn thạc sĩ luật học: Nguyễn Văn Điệp- Hà nội, Năm 2005.
5. Hội thảo: Một số bấp cập trong quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và những kiến nghi sửa đổi bổ sung. Chủ trì: TS. Hoàng Thị Minh Sơn - Hà Nội. Năm 2007. 
6. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong Tố tụng hình sự Việt Nam Khóa luận tốt nghiệp: Đỗ Thị Hương Ly, Hà Nội 2011


Nếu muốn download không mất phí, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm vào email baitapluat@gmail.com. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment