28/02/2014
Bài tập cá nhân Luật Hành chính - So sánh tội phạm và vi phạm hành chính
Tội phạm hay vi phạm hành chính đều là vi phạm pháp luật, do đó giữa tội phạm và vi phạm có những nét tương đồng, rất khó để xác định ranh giới. Vấn đề cần đặt ra đó là cần phải phân biệt và xác định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính, vì nó không chỉ có ý nghĩa trong việc áp dụng luật mà còn có ý nghĩa trong việc xây dựng và giải thích pháp luật. 

* Về khái niệm:

Theo điều 8 Bộ luật hình sự thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một các cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Tổng quát lại, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.

Theo điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,  xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật về xử phạt hành chính”.

* Về thời điểm xuất hiện tên gọi:

Một hành vi chỉ cho dù đã cấu thành một hay nhiều tội đã quy định trong Bộ luật hình sự mà vẫn chưa bị xét xử thì hành vi đó vẫn chưa bị coi là tội phạm. Chỉ khi nào hành vi đó bị tòa án tuyên án là tội phạm thì bắt đầu từ thời điểm đó, hành vi đó mới gọi là tội phạm. Tương tự, một người chỉ bi gọi là bị cáo khi họ đã bị tòa tuyên án, còn trước đó, họ chỉ là bị can. Như vậy, một hành vi bị coi là tội phạm khi  hành vi đó phải chịu hình phạt - tòa tuyên án.

Vi phạm hành chính thì khác, một hành vi đã thõa mãn: do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý; xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước; không phải tội phạm hình sự thì hành vi đó đã là hành vi vi phạm hành chính. Dấu hiệu “theo quy định pháp luật phải bị xử phạt hành chính” nói lên rằng bị xử phạt không phải là dấu hiệu để coi một hành vi đã bị coi là hành vi vi phạm hành chính hay chưa mà chỉ là biện pháp cưỡng chế nhà nước nhằm trừng phạt hành vi vi phạm đó. 

VD:  A không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, vượt đèn đỏ, chở quá số người quy định thì hành vi của A đã là hành vi vi phạm hành chính mà không phải đợi đến lúc chiến sĩ công an xử phạt mới có tên gọi đó.

* Về các dấu hiệu cấu thành:

-  Chủ thể:

Theo Bộ luật hình sự hiện hành thì chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân (Điều 2). Để trở thành chủ thể của tội phạm thì phải có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện một tội phạm cụ thể và phải đạt độ tuổi quy định. Cụ thể đó là phải từ 14 tuổi đến chưa đầy16 tuổi đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng hay từ 16 tuổi trở lên đối với mọi tội phạm (Điều 12).

Theo Khoản 1, Điều 6 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính, chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân, trong đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Ngoài ra, chủ thể của vi phạm hành chính không chỉ là cá nhân như tội phạm mà còn có thể là tổ chức: có thể là cơ quan nhà nước, là các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.

VD:  Hành vi làm ô nhiễm nguồn nước nếu là tội phạm chỉ có thể là do cá nhân cụ thể thực hiện (Điều 183 Bộ luật hình sự) nhưng nếu là vi phạm hành chính thì có thể là cá nhân, cũng có thể là tổ chức.

Như vậy, phạm vi chủ thể của vi phạm hành chính nhiều hơn rất nhiều so với tội phạm.

- Mặt khách quan:

+ Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi:

Dấu hiệu cơ bản để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm là mức độ nguy hiệm cho xã hội của hành vi vi phạm. Là tội phạm thì hành vi đó phải gây “nguy hiểm đáng kể” cho xã hội. Nguy hiểm đáng kể ở đây là theo Bộ luật hình sự. Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm hình sự. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm được đánh giá ở nhiều yếu tố khác nhau và những yêu tố này thường được quy định trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

+ Mức độ nguy hiểm của hành vi: 

Để xác định, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền dựa trên sự nhận thức về ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, đã được quy định cụ thể ở bộ luật hình sự, các nghị định , thông tư hướng dẫn trong các trường hợp cụ thể. . . Mức độ gây thiệt hại biểu hiện ở dưới các hình thức khác nhau như mức độ gây thương tật, giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng phạm pháp. . .

VD: Theo Bộ luật hình sự, trộm cắp từ 500 nghìn đồng trở lên (Đ138), trốn thuế từ 50 triệu đồng trở lên (Đ161), cố ý gây thương tích cho người khác từ 11% trở lên (Đ104)... thì là tội phạm. Nguyễn Văn A lấy cắp của hợp tác xã X số tài sản là dưới 500.000 đồng mà không có tình tiêt nào khác thì chỉ bị xử phạt hành chính. Như vậy, nếu như mức độ gây thiệt hại dưới mức Bộ luật hình sự đã qui định mà không thêm tình tiết nào thì người vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính.

+ Mức độ tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần.

A trốn thuế Nhà nước dưới 50 triệu đồng nhưng trước đó đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì hành vi của A đã cấu thành tội trốn thuế theo khoản 1 điều 161 Bộ luật hình sự. Như vậy trong nhiều trường hợp, nếu như chỉ đánh giá về hành vi thì khó xác định được đó là tội phạm hay là vi phạm hành chính. Có những tội phạm, dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính phải có, là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội đó.   VD: A tổ chức kết hôn cho con của mình (16 tuổi) và người khác, thì nếu như là lần đầu, A chỉ bị coi là vi phạm hành chính và chỉ bị xử phạt hành chính. Còn nếu như A đã bị xử phạt hành chính rồi thì hành vi của A cấu thành tội tổ chức tảo hôn theo khoản 1 điều 148 Bộ luật hình sự.

+ Công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm.

A cố ý gây thương tích cho B mà tỉ lệ thương tật dưới 11%, vi phạm lần đầu thì chỉ là vi phạm hành chính nhưng nếu thuộc các tình tiết sau thì là tội phạm:  dùng hung khí nguy hiểm (dùng dao, rìu) hoặc thủ đoạn gây nguy hiểm cho nhiều người (bỏ thuốc sâu vào nguồn nước nhà B); thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê.

Như vậy, công cụ, phương tiện phạm tội cũng là một căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm cho hành vi vi phạm.

- Mặt chủ quan: Lỗi:

Trong Bộ luật hình sự, nhà làm luật quy định bốn hình thức lỗi, đó là lối cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, lỗi vô ý vì quá tự tin và cố ý do cẩu thả. Như vậy do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của từng trương hợp lỗi là khác nhau, với lại tội phạm là loại vi phạm pháp luật nặng nhất nên quy đinh bốn hình thức lỗi giúp giải quyết chính xác các vụ án hình sự.

Vi phạm hành chính chỉ quy định hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Các trường hợp vi phạm mà lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp hoặc vô ý vì quá tự tin hay do cẩu thả đều xử lý như nhau.

VD:  A cố ý gây thương tích cho B với tỉ lệ thương tật là 10%. Khi thực hiện hành vi cho dù A mong muốn hậu quả xảy ra (B bi thương tích 10%) hoặc không mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra thì đều bị xử phạt như nhau. 

* Về căn cứ pháp lý

Tội phạm là loại vi phạm pháp luật nặng nhất và được quy định trong Bộ luật hình sự và chỉ có Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy định về tôi phạm và hình phạt. Ngay từ điều 2 Bộ luật hình sự đã quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự: “Chỉ người nào phạm một tội được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy Bộ luật hình sự là căn cứ pháp lý duy nhất để xem xét xem một hành vi vi phạm có bị coi là tội phạm hay không - không có trong luật thì không có tội, “vô luật bất hình”.

Vi phạm hành chính không được quy định trong một bộ luật cụ thể nào mà được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư. . . Luật ở đây là các bộ luật là nguồn của luật hành chính chứ không phải là bộ luật hành chính, ví dụ: hiến pháp, luật tổ chức chính phủ… nguyên nhân mà chúng ta không có riêng một bộ luật hành chính đơn giản vì nó quá rộng, quá nhiều lĩnh vực với quá nhiều các văn bản pháp luật và chúng ta không thể pháp điển hóa thành bộ luật. Các văn bản dưới luật ở đây có thể là nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, ủy ban thường vụ Quốc hội, hội đồng nhân dân; pháp lệnh của ủy ban thường vụ quốc hội; nghị định của Chính phủ; các quyết định, chỉ thị, thông tư. . .

VD:  Pháp lệnh cán bộ công chức, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính của ủy ban thường vụ quốc hội; Nghị quyết của chính phủ số 09/2003/NQ-CP ngày 28/07/2003 về sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 16/2000/ND-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giảm biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.

*  Về hậu quả pháp lý

Người nào thực hiện tội phạm hay vi phạm hành chính sẽ bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước để trả giá cho những gì mình đã gây ra cho xã hội. Tuy nhiên, tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật nặng nhất, nên phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt. Chỉ có tội phạm mới phải chịu hình phạt và ngược lại hành vi nào mà phải chịu hình phạt thì hành vi đó là tội phạm.

Cũng là biện pháp cưỡng chế nhà nước nhưng ở mức độ ít nghiêm khắc hơn, người vi phạm hành chính có thể sẽ bị xử phạt hành chính.

VD: A lấy cắp tài sản của UBND xã Y. Nếu tài sản là 490.000 nghìn đồng mà không có tình tiết nào khác để cấu thành tội phạm, thì nếu bị xử phạt hành chính thì chủ tịch xã Y chỉ có thể phạt mức cao nhất là 500.000 đồng. Nếu tài sản đó từ 500.000 trở lên hoặc dưới 500.000 nhưng có tình tiết khác cấu thành tội phạm thì có thể sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm, ngoài ra có thể phải chịu thêm hình phạt tiền bổ sung theo khoản 5 điều 138 Bộ luật hình sự.

Như vậy, ngoài những đặc điểm chung là vi phạm pháp luật, cả tội phạm và vi phạm hành chính đều có những dấu hiệu riêng biệt. Để phân, cần tìm hiểu và nhận thức đúng đắn các dấu hiệu đó, trong các trường hợp cụ thể thì ta có thể phân biệt được chúng, từ đó đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật công minh.

Tài liệu tham khảo

• Giáo trình Luật hành chính, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, 2008.
• Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính đã sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008.
• Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, 2008.
• Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.

Link download Bài tập cá nhân Luật Hành chính - So sánh tội phạm và vi phạm hành chính

No comments:

Post a Comment