18/03/2015
Phân tích quy chế pháp lí của đảo và các công trình nhân tạo theo quy định của UNCLOS 1982 - Bài tập học kỳ Luật Biển quốc tế
Với những tiến bộ của loài người, sự phát triển của khoa học công nghệ, áp lực từ việc gia tăng dân số chưa từng có và ngày càng nhiều hoạt động tăng cường của con người ở biển, thì vấn đề đảo nhân tạo dường như trở nên càng quan trọng hơn. Việc xây dựng các đảo và công trình nhân tạo liên quan tới chủ quyền quốc gia, quyền tài phán biển, phân định biên giới biển, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên biển mà nếu không được giải quyết đúng cách, có thể trở thành một điểm nóng mới trong tranh chấp và xung đột quốc tế.

Xuất phát từ nhận thức đó, em xin trình bày đề tài: “Phân tích quy chế pháp lí của đảo và các công trình nhân tạo theo quy định của UNCLOS 1982”. Do dung lượng có hạn nên em xin tập trung trình bày về quy chế pháp lí của đảo nhân tạo và các công trình nhân tạomà không đề cập tớiđảo tự nhiên.

Nội Dung

1.Khái niệm đảo nhân tạo và các công trình nhân tạo

Xuất phát từ học thuyết thềm lục địa, từ lâu người ta đã công nhận thẩm quyền của quốc gia ven biển xây dựng các cấu trúc nhân tạo nhằm mục đích thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình trên thềm lục địa của  mình nhưng  các cấu trúc này không có quy chế đảo. Tại Hội nghị Pháp điển hoá Luật pháp quốc tế Lahay 1930, đại diện của Đức đã đề nghị nếu một đảo nhân tạo có người ở thì sẽ được hưởng quy chế đảo nhưng Hội nghị đã bác bỏ . Từ đó, không có quốc gia nào đề nghị các cấu trúc nhân tạo có quy chế đảo nữa.

Trong luật pháp quốc tế, định nghĩa “đảo nhân tạo” và “công trình nhân tạo” chưa được quy định rõ ràng. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa nào về đảo nhân tạo và công trình nhân tạo được các quốc gia chấp nhận rộng rãi.

Theo Bách khoa toàn thư về công pháp quốc tế, đảo nhân tạo được định nghĩa là “những cấu trúc được tạo ra bằng cách đặt/đổ lên các vật chất tự nhiên như sỏi, cát và đá”; còn các công trình nhân tạo được định nghĩa là “những cấu trúc cố định hay tạm thời được gắn với đáy biển bằng hệ thống chân cọc”.Hai định nghĩa học thuật này có một số ý nghĩa pháp lý, nhưng không thể bao trùm hết tất cả các loại đảo nhân tạo và công trình lắp đặt nhân tạo.

Theo tính toán của Papadakis, có rất nhiều loại đảo nhân tạo như thành phố trên biển (cố định hoặc nổi), đảo nhân tạo phục vụ phát triển kinh tế, chẳng hạn như đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên, đảo nhân tạo công nghiệp, đảo nhân tạo phục vụ đánh bắt cá, các công trình xây lắp nhân tạo để phát triển các nguồn lực phi tự nhiên như cứu hộ hoặc khảo cổ học, nhà máy điện; các công trình nhân tạo phục vụ giao thông vận tải, chẳng hạn như bến tàu nổi, nhà kho, sân bay nổi; các công trình phục vụ nghiên cứu khoa học và dự báo thời tiết; các công trình phục vụ giải trí; và các căn cứ quân sự.

Công ước luật biển 1982 của Liên hợp quốc chỉ đưa ra định nghĩa về “đảo”; không có định nghĩa về “đảo nhân tạo”. Tuy vậy, để xác định thế nào là đảo nhân tạo, người ta có thể suy ra từ định nghĩa “đảo” trong Công ước luật biển 1982. Theo Công ước, “đảo” tự nhiên là một vùng đất được hình thành tự nhiên, bao quanh là nước và nổi trên mặt nước khi thủy triều lên. Như vậy, những đảo không phải là vùng đất, không được nước biển bao quanh, chỉ nổi lên trên mặt nước khi thủy triều lên nhờ những công trình xây dựng của con người thì được coi là các đảo nhân tạo, không phải là đảo tự nhiên.

Các công trình nhân tạo nhìn chung không được coi là đảo vì chúng rõ ràng không phải là các vùng đất được hình thành một cách tự nhiên. Cả Công ước 1958 về  Lãnh hải và Công ước Luật  biển 1982 đều không ghi nhận quy chế đảo cho các công trình thuộc loại này. Điều 5 khoản 4 của Công ước 1958 về Thềm lục địa quy định chế độ pháp lý của các công trình này như sau: “Các công trình và thiết bị này  thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển, nhưng không có qui chế như các đảo,  không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc xác định biên giới lãnh hải của quốc gia ven biển.”

Mặc dù Công ước Luật Biển không có một định nghĩa nào về đảo nhân tạo, nhưng lạiđưa ra nhiều quy định về quy chế pháp lý của các đảo nhân tạo và công trình nhân tạo.

2. Quy chế pháp lí của đảo nhân tạo và các công trình nhân tạo theo quy định của UNCLOS 1982

2.1. Các quy định về quyền xây dựng các đảo nhân tạo và công trình nhân tạo trên biển

Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, theo Điều 60 và 80 của Công ước luật biển 1982, các quốc gia ven biển được quyền xây dựng, cho phép xây dựng cũng như quy định về việc xây dựng, vận hành và sử dụng các đảo nhân tạo và các công trình nhân tạo phục vụ cho mục đích kinh tế hoặc thực hiện các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển trong khu vực biển đó (Khoản 8). Các quốc gia ven biển có quyền tài phán hoàn toàn đối với các đảo nhân tạo và công trình nhân tạo, bao gồm cả thẩm quyền về hải quan, tài chính, y tế, an ninh và nhập cư (Khoản 2).Ngoài ra, theo Điều 87 của Công ước luật biển 1982 các quốc gia thành viên Công ước cũng có quyền xây dựng đảo và công trình nhân tạo trên biển cả như là một trong những quyền tự do khác ở đại dương với điều kiện tuân thủ phần VI (Điểm e khoản 1).

Việc xây dựng đảo nhân tạo và công trình nhân tạo phải đáp ứng một số điều kiện nêu trong Điều 60 Công ước luật biển 1982:

- Phải thông báo theo đúng thủ tục và phải duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo và công trình nói trên, khi không dùng đến nữa cần được tháo dỡ để bảo đảm an toàn hàng hải, có  tính đến những quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có  thẩm quyền đặt ra (Khoản 3).

- Không được tiến hành tại những địa điểm có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế (Khoản 7).

Trong khi thực hiện quyền tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các công trình trên biển cả, mỗi quốc gia phải tôn trọng lợi ích cũng như việc thực hiện quyền tự do trên biển cả của các quốc gia khác cũng như của cả cộng đồng quốc tế.

2.2. Về việc xác lập vùng an toàn xung quanh các đảo nhân tạo và các công trình nhân tạo

Công ước luật biển 1982 Khoản 8 Điều 60 quy định: “Các đảo, các công trình nhân tạo không có quy chế pháp lý của đảo. Chúng không có lãnh hải và các vùng biển riêng. Sự hiện diện của các đảo và công trình nhân tạo này không ảnh hưởng đến việc phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.  Như vậy, các đảo và công trình nhân tạo không tạo ra bất kỳ vùng biển nào xung quanh chúng, cũng không có vai trò gì trong việc phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Nếu thấy cần thiết, các quốc gia ven biển có thể thiết lập vùng an toàn thích hợp xung quanh các đảo và công trình nhân tạo đó và có thể tiến hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn của các đảo, các công trình nhân tạo cũng như an toàn hàng hải (Điều 60 khoản 4 Công ước luật biển 1982). Tuy vậy, Điều 60 khoản 5 Công ước luật biển 1982 quy định những khu vực an toàn xung quanh đảo nhân tạo không được vượt quá khoảng cách 500 mét “tính từ mỗi điểm của rìa ngoài của chúng, trừ khi các điểm đó được công nhận theo các tiêu chuẩn quốc tế hoặc theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền”. Phạm vi của khu vực an toàn phải được thông báo theo đúng thủ tục quy định trong Công ước.

3. Một số tác động của việc xây dựng đảo nhân tạo và công trình nhân tạo đối với việc phân định biên giới biển

Đối với việc phân định lãnh hải, “công trình cảng bền vững ở xa nhất mà tạo nên một phần không thể tách rời của hệ thống cảng biển được coi như là một phần cấu thành bờ biển”, nhưng những thiết lập xa bờ và các đảo nhân tạo không nên được coi là “công trình cảng bền vững” . Đây là điều khoản giới hạn tác động của đảo nhân tạo đối với việc phân định lãnh hải. Tuy nhiên, mặt khác, liên quan đến việc sử dụng các đường cơ sở thẳng, Công ước Luật Biển lại quy định rằng: “Đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc kéo từ mực nước khi thủy triều hạ xuống trừ khi các ngọn hải đăng hoặc các thiết lập tương tự luôn luôn ở trên mực nước biển đã được xây dựng bên trên chúng hoặc ngoại trừ trường hợp đường cơ sở thẳng được kéo đến hoặc từ điểm và từ mực nước như vậy đã được quốc tế công nhận” . Quy định này chỉ ra rằng đảo nhân tạo và các thiết lập có thể đóng một số vai trò trong phân định lãnh hải. Tất nhiên, liên quan đến việc phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trừ một số vai trò trong việc xác định đường cơ sở thẳng mà căn cứ vào đó để đo đạc vùng lãnh hải như đã đề cập ở trên thì đảo nhân tạo, về nguyên tắc, không có bất kỳ vai trò gì vì chúng không có các quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế và/hoặc thềm lục địa như đã quy định trong Công ước Luật Biển.

Cùng với sự tăng dân số, trong tương lai người ta có thể sẽ xây dựng các đảo nhân tạo có quy mô lớn hay thậm chí là các thành phố trên biển. Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, tại Vương quốc Anh đã có kế hoạch xây dựng một thành phố trên biển đủ khả năng cho một cộng đồng tự trị khoảng 30.000 dân sinh sống . Các đảo nhân tạo được xây dựng ở Dubai của Tiểu Vương Quốc Ả Rập ít nhiều đã một phần thực hiện được kế hoạch ấy . Cũng đã có những đề xuất xây dựng sân bay mới trên biển. Trên thực tế, một số sân bay châu Á đang được xây dựng ngoài biển . Với sự phát triển của công nghệ, còn có thể xây dựng được sân bay giữa đại dương. Các cơ sở hạ tầng nhân tạo hiện có cũng như đang được đề xuất có mối liên quan đến địa vị pháp lý của đảo nhân tạo. Câu hỏi được đặt ra là: Với khả năng duy trì đời sống con người hoặc đời sống kinh tế của riêng mình, liệu các  đảo nhân tạo này có được hưởng các quyền có các vùng biển hay không?

Đảo nhân tạo chắc chắn có những ảnh hưởng về mặt pháp lý khác đối với sự phát triển của luật pháp quốc tế và thực tiễn Nhà nước tương ứng, điều này đòi hỏi cần có thêm các cuộc thảo luận và tranh luận. Chính vì vậy, chắc chắn rằng vấn đề về đảo nhân tạo sẽ thu hút sự chú ý nhiều hơn nữa từ cộng đồng thế giới trong tương lai gần.

Kết Luận

Dưới áp lực của việc gia tăng dân số chưa từng có và nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, con người có thể xây dựng ngày càng nhiều các đảo nhân tạo và các công trình nhân tạo trên biển để đưa các hoạt động kinh tế ra biển và mở rộng không gian sinh tồn. Trong tương lai, người ta có thể xây dựng các sân bay, các nhà máy điện, các cơ sở sản xuất nông nghiệp biển và nuôi trồng thủy sản, các cơ sở công nghiệp và thậm chí cả những thành phố lớn trên biển. Bên cạnh mục đích sử dụng biển, một số quốc gia còn tiến hành xây dựng và bồi đắp những đảo nhỏ, đảo đá và các bãi san hô tự nhiên nhằm mục đích duy trì và củng cố những yêu sách chủ quyền đối với các đảo, đá và bãi san hô này, trên cơ sở đó xác lập những vùng biển tranh chấp rộng lớn. Vì vậy, việc nghiên cứu và nắm vững những quy định của luật pháp quốc tế về quy chế pháp lý của các đảo nhân tạo và các công trình nhân tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc ngăn ngừa và giải quyết các loại tranh chấp.
Phụ lục 1:  Quy chế pháp lý của các đảo nhân tạo và công trình nhân tạo trên biển Đông

Hiện nay, trong khu vực biển tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có ba loại đảo và công trình nhân tạo, cụ thể:

- Các công trình nổi tạm thời như các nhà giàn hoặc các công trình phục vụ cho mục đích kinh tế;

- Các thiết bị và công trình nhân tạo như đường băng, cảng biển được gắn kết tạm thời hoặc vĩnh viễn với các đảo, đá tự nhiên.

- Các công trình xây dựng nhằm củng cố và bồi đắp các đá, bãi san hô, các đảo không có điều kiện duy trì sự sống của con người hay không có đời sống kinh tế riêng, làm thay đổi điều kiện tự nhiên của chúng để giúp cho con người có thể đến cư trú được.

Quy chế pháp lý đối với hai loại công trình nhân tạo đầu tiên được Công ước luật biển 1982 quy định rất rõ ràng: Các đảo nhân tạo và công trình nhân tạo không có vùng biển riêng, mà chỉ có thể có vùng an toàn, nhưng không vượt quá 500 mét.

Tuy vậy, việc xác định quy chế pháp lý của những đảo không có điều kiện duy trì sự sống của con người hay không có đời sống kinh tế riêng, các đá và bãi san hô tự nhiên được củng cố, bồi đắp làm thay đổi điều kiện tự nhiên để con người có thể cư trú được lại là vấn đề rất phức tạp cần phân tích kỹ lưỡng hơn. Lý do là các đảo, đá và bãi san hô thuộc loại này vừa có đặc điểm tự nhiên, vừa có đặc điểm nhân tạo, lại không được quy định rõ ràng trong Công ước luật biển 1982. Vậy người ta dựa trên cơ sở nào để xác định quy chế pháp lý của các đảo, đá và bãi san hô nói trên ?

Việc xác định quy chế pháp lý của những đảo, đá, bãi nói trên cần phải dựa vào các quy định hiện có của luật biển quốc tế và thực tiễn quốc tế. Theo Điều 60 và các quy định khác của Công ước luật biển 1982, việc xây dựng các đảo và công trình nhân tạo không được ảnh hưởng một cách bất hợp lý đến các quyền và lợi ích của các quốc gia khác cũng như của cả cộng đồng quốc tế. Các quyền và lợi ích của các quốc gia và của cộng đồng quốc tế bao gồm quyền tự do và an toàn hàng hải, quyền xác lập các vùng biển theo Công ước luật biển 1982, chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển đối với các vùng biển của họ và các quyền tự do trên biển khác. Theo các quy định này thì việc củng cố bồi đắp các đảo không có điều kiện cho con người cư trú và không có đời sống kinh tế riêng, các đá và bãi san hô tự nhiên để cho con người có thể đến cư trú hoặc tiến hành các hoạt động kinh tế rõ ràng không làm thay đổi quy chế pháp lý của chúng.

Quy chế pháp lý của các đảo, đá và bãi san hô nói trên phải được xác định theo đúng quy định về quy chế đảo, đá của Công ước luật biển 1982  trên cơ sở điều kiện tự nhiên của chúng vào thời điểm trước khi chúng được củng cố và bồi đắp. Khoản 3, điều 121 của Công ước quy định: Những đá mà ở đó không thể duy trì sự sống của con người hay đời sống kinh tế riêng thì sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Khoản 2, điều 121 cũng quy định đối với các đảo không thể duy trì sự sống của con người hay đời sống kinh tế riêng cũng không có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.

Đã có thực tiễn quốc tế về vấn đề tác động của các công trình nhân tạo đối với quy chế pháp lý của đảo, đá nhỏ. Trong Vụ giải quyết tranh chấp về phân định biển và các vấn đề lãnh thổ giữa Qutar và Bahrain năm 2001, một thẩm phán của Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “Theo quy định trong Công ước luật biển 1982, những nỗ lực bị cáo buộc của cả hai nước để thay đổi một cách nhân tạo phần trên bề mặt của đảo Qi’at Jaradah không cho phép tôi kết luận rằng đảo nhỏ này được hưởng quy chế pháp lý của một hòn đảo.”

Ông Jon Van Dyke, một chuyên gia biển Đông lâu năm có ý kiến khá sâu sắc về vấn đề này. Ông cho rằng việc Nhật Bản tiến hành xây dựng, củng cố và bồi đắp đảo san hô Okinotorishima, không làm thay đổi quy chế pháp lý của đảo này. Nỗ lực đó chỉ được coi là hành động biến đảo san hô nói trên thành đảo nhân tạo. Vì vậy, Nhật Bản không thể đòi hỏi cho đảo nhân tạo này vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tương tự như vậy, ông cho rằng các đá, bãi san hô và các đảo không có điều kiện cho con người sinh sống hay không có điều kiện kinh tế riêng ở biển Đông được một số nước, trong đó có Trung Quốc và Malaysia, củng cố và bồi đắp sẽ chỉ được coi là các hòn đảo nhân tạo; thậm chí chúng còn mất tư cách pháp lý của các đảo, đá và bãi san hô tự nhiên.

Trong thời gian qua, nhằm hạn chế tranh chấp và thực hiện theo quy định của Công ước luật biển 1982, Malaysia, Philipin và Việt Nam có xu hướng chỉ dành cho các đảo, đá, bãi nói trên tại quần đảo Trường Sa một vùng lãnh hải cùng lắm là 12 hải lý. Dường như chỉ có Trung Quốc là bên tranh chấp còn dựa trên yêu sách chủ quyền đối với các đảo, đá, bãi thuộc loại trên để xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuy vậy, theo luật pháp quốc tế thì Trung Quốc không được phép yêu sách như vậy còn bởi vì hai lý do khác. Một là, Trung Quốc không có chủ quyền đối với các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc chiếm các đảo tại hai quần đảo này đều bằng vũ lực, là một biện pháp chiếm hữu trái với những quy định của luật pháp quốc tế. Hai là, chính Trung Quốc đã phản đối Nhật Bản tuyên bố yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xung quanh đảo Okinotorishima. Vì thế, luật pháp quốc tế không cho phép Trung Quốc sử dụng “tiêu chuẩn kép” về quy chế đảo để đưa ra những yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xung quanh những đảo, đá không có điều kiện cho con người sinh sống hay không có đời sống kinh tế riêng ở biển Đông mà họ đã ra công củng cố, bồi đắp.

Phụ lục 2: Một số hình ảnh đảo nhân tạo và công trình nhân tạo trên thế giới

Sân bay quốc tế Kansai nằm trên một đảo nhân tạo

Pháo đài No Man's Land (Anh) được dựng lên từ thời Nữ hoàng Victoria với mục đích canh giữ vùng biển nước Anh trước sự nhăm nhe tấn công của hải quân Pháp
  
Đảo Umi Hotaru, Nhật Bản: Đường cao tốc Aqua-Line ở vịnh Tokyo có nhiệm vụ kết nối thành phố Kawasaki của tỉnh Kanagawa với thành phố Kisarazu của tỉnh Chiba. Đường cao tốc bắc qua vịnh gồm một đường hầm ngầm nằm dưới mặt nước biển nối với một cây cầu nổi. Ở tiếp điểm giữa hầm ngầm và cây cầu là một hòn đảo nhân tạo có tên Umi Hotaru.

Đảo nhân tạo Northstar trong biển Beaufort là nơi đặt thiết bị khoan dầu


Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo

1. Công ước luật biển 1982.
2. Công ước 1958 về Thềm lục địa.
3. Thành Nam,Ý nghĩa của việc xác định qui chế pháp lý quốc tế của Đảo và công trình nhân tạo trong giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo, web: http://biendong.net/binh-luan/264-y-ngha-ca-vic-xac-nh-qui-ch-phap-ly-quc-t-ca-o-va-cong-trinh-nhan-to.html
4. PGS.TS. Nguyễn Bá Diễn, Địa vị pháp lý của đảo trong phân định các vùng biển, web: http://nghiencuubiendong.vn/toa-dam-hoi-thao/hoi-thao-quoc-gia-ve-bien-dong-lan-thu-hai-ha-noi-42011/1503-dia-vi-phap-ly-cua-dao-trong-phan-dinh-cac-vung-bien
5. GS. Keyuan Zou, Khoa Luật, Đại học Trung tâm Lancashire, Vương quốc Anh, Tác động của các đảo nhân tạo đối với tranh chấp quần đảo Trường Sa, web: http://nghiencuubiendong.vn/toa-dam-hoi-thao/hoi-thao-quoc-te-ve-bien-dong-lan-2-ho-chi-minh-112010/1188-tac-dong-cua-dao-nha-tao
6. Nguyễn Bá Diễn (chủ biên), Trung tâm Luật biển và Hàng hải quốc tế,  Chính sách pháp luật biển Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững, NXB Tư pháp, 2006;
7. Bách khoa toàn thư về công pháp quốc tế.
8. Declaration of Judge Vereshchetin, in Judgement of 16 March 2001, p. 220.
9. Hình ảnh, web:
http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3o_nh%C3%A2n_t%E1%BA%A1

No comments:

Post a Comment