28/02/2015
Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng - Bài tập Luật Ngân hàng
1. Pháp luật quy định rõ điều kiện của chủ thể khi tham gia vào quan hệ cho vay 

1.1.Bên cho vay.

Trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, bên cho vay thông thường là tổ chức tín dụng có đủ những điều kiện do pháp luật quy định. Ngoài ra, các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng nếu được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện hoạt động tín dụng thì cũng có thể là bên cho vay và cũng phải thỏa mãn các điều kiện chủ thể giống như đối với bên cho vay là tổ chức tín dụng.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ thể cho vay phải thoả mãn các điều kiện theo Điều 28 Luật các tổ chức tín dụng :

- Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.

- Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.

- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.

- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.

Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện. 

1.2. Bên vay.

Theo Điều 7 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp đồng tín dụng):

“ 1.Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:

a) Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:

- Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;

- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;

- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;

- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;

- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;

b) Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.

2. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.

3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.

4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.

5. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”

Tóm lại, việc pháp luật quy định các điều kiện chủ thể đối với bên cho vay và bên đi vay trong hợp đồng tín dụng, ngoài mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động tín dụng còn có ý nghĩa là giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.

2.2. Các quy định của pháp luật về quy trình cho vay vốn của các TCTD.

Quy trình cho vay vốn là tổng hợp các bước cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hang cho đến khi TCTD quyết định cho vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng tín dụng. Dựa trên điều kiện của mình các TCTD thiết kế quy trình cho vay cụ thể và  phù hợp. Một quy trình cho vay vốn có thể bao gồm các bước như sau:

BẢNG TÓM TẮT QUY TRÌNH CHO VAY VỐN

Giai đoạn 1: Lập hồ sơ tín dụng

Nguồn và nơi cung cấp thông tin: Khách hàng đi vay cung cấp thông tin tín dụng

Nhiệm vụ của tổ chức tín dụng: Tiếp xúc, phổ biến hướng dẫn khách hang lập hồ sơ vay vốn

Kết quả: Hoàn thành hồ sơ để chuyển sang giai đoạn sau

Giai đoạn 2: Thẩm định hồ sơ và phân tích tín dụng 

Nguồn và nơi cung cấp thông tin: 

- Hồ sơ đề nghị vay từ giai đoạn trước chuyển sang.

- Các thông tin bổ sung từ phỏng vấn, hồ sơ lưu trữ…

Nhiệm vụ của tổ chức tín dụng: Tổ chức thẩm định về mặt tài chính và phi tài chính do các cá nhân hoặc bộ phận thẩm định thực hiện.

Kết quả: Báo cáo kết quả thầm định và chuyển sang bọ phận có thẩm quyền để quyết định cho vay hoặc tư chối cho vay

Giai đoạn 3: Quyết định tín dụng

Nguồn và nơi cung cấp thông tin: Các tài liệu và thông tin từ giai đoạn trước chuyển sang và báo cáo kết quả thẩm định

Nhiệm vụ của tổ chức tín dụng: Quyết đinh cho vay hoặc từ chối cho vay dựa vào kết quả phần tích

Kết quả: Tiến hành các thủ tực pháp lý: Hợp đồng tín dụng;Hợp đồng công chứng và các loại hợp đồng khác

Giai đoạn 4: Giải ngân 

Nguồn và nơi cung cấp thông tin: 

- Quyết định cho vay và các hợp đồng liên quan

- Các chứng từ làm cơ sở giải ngân 

Nhiệm vụ của tổ chức tín dụng: Thẩm đinh các chứng từ kèm theo các điều kiện của hợp đồng tín dụng trước khi phát tiền vay

Kết quả: Chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng hoặc chuyển cho nhà cung cấp theo yêu cầu của khách hàng hoặc giao trực tiếp cho khách hàng.

Giai đoạn 5: Giám sát và thanh lý tín dụng 

Nguồn và nơi cung cấp thông tin:

- Các thông tin từ nội bộ Ngân hàng.

- Các báo cáo tài chính theo định kỳ của KH. 

- Các thông tin khác 

Nhiệm vụ của tổ chức tín dụng:

- Phân tích báo cáo tài chính, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay. 

- Tái xét và thanh lý Hợp đồng tín dụng.

Kết quả:

- Báo cáo kết quả giám sát và đưa ra các giải pháp xử lý. 

- Lập các thủ tục để thanh lý tín dụng

Xây dựng quy trình cho vay vốn của TCTD dự trên quy định thực tế của pháp luật hiện hành, cụ thể là tại Khoản 1, Điều 14 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN: “Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn như quy định tại Điều 7 Quy chế này. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng.”

Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ pháp lý do TCTD thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không ..Do tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là TCTD phải triệt để tuân thủ nguyên tắc bảo đảm tính đậc lập ,phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay.”Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay”.(Khoản 1Điều15 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN).

3. Hợp đồng tín dụng, cơ sở pháp lý quan trong trong họa động cho vay của TCTD.

Sau khi ra quyết định chấp thuận cho khách hàng vay vốn các TCTD sẽ hướng dẫn khách hàng ký kết HĐTD. Theo quy định tại điều 17 của Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng...”.Chủ thể tham gia ký kết HĐTD là bên cho vay(các TCTD) và bên vay (khách hàng có nhu cầu vay vốn ). Theo quy định tại điều 51 của Luật Các tổ chức tín dụng : “ Hợp đồng tín dụng đều phải ký kết bằng văn bản thì mới có gía trị pháp lý. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận” Văn bản hợp đồng tín dụng bao gồm văn bản viết và văn bản điện tử.Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương diện điện tử dưới hình thức thông điệp dự liệu được coi là giao dịch bằng văn bản .Các văn bản hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch. 

3.1 Các nội dung cơ bản của HĐTD

Theo quy định tại Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:

- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực. Theo quy định Điều 7, Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì:

Thứ nhất: Khách hàng vay vốn cần phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.

Thứ hai: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.

Thứ ba: Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.

Thứ tư: Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.  

Thứ năm: Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.

- Điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay : Các quy định của pháp luật cũng có quy định mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp, khách hàng vay phải sử dụng đúng mực đích cam kết theo Khoản 2, điều 7 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN. Do đó, trong điều khỏan này các bên cần ghi rõ vôn vay được sử dụng vào mục đích gì ( vay mua nhà, vay kinh doanh…)  

Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào, nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật cấm, như việc vay vốn để trả nợ TCTD khác hoặc trả nợ chính TCTD đã vay, nhưng lại rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trong thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thỏa thuận thì TCTD lập tức được chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm và thu hồi nợ trước hạn.

- Điều khoản về phương thức và kỳ hạn trả nợ: Đây là điều khoản rất quan trọng vì nó có liên quan đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Theo quy định tại khoản , điều 13, Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, các bên thỏa thuận rõ số tiền vay được trả dần hàng tháng hay trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu thỏa thuận rõ việc thanh toán tiến hành theo từng kỳ hạn thỉ các bên cũng có thể dự liệu trước khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ. Như vậy sẽ giảm bớt rủi ro cho ngân hàng khi khách hàng không có khả năng hoàn trả toàn bộ số nợ một lần.

- Điều khoản về lãi suất: lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.

Lãi suất được áp dụng trong hợp đồng tín dụng theo hai phương thức cơ bản là lãi suất cố định và lãi suất thay đổi (hay còn được gọi là lãi suất thả nổi). Nếu các bên thoả thuận áp dụng lãi suất cố định, thì lãi suất sẽ không thay đổi trong suốt thời hạn vay, bất kể lãi suất thị trường có tăng lên hay giảm xuống. Nếu các bên thoả thuận áp dụng lãi suất thay đổi thì sẽ điều chỉnh lãi suất lên, xuống dựa vào lãi suất thị trường. Tuy nhiên hầu hết các TCTD đều áp dụng quy định một lãi suất biến đổi theo từng thời kỳ. 

- Lãi suất quá hạn: Hầu hết các TCTD vẫn thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với chính hợp đồng tín dụng đó. Mức lãi suất quá hạn không quá 150% này là do NHNN quy định dựa trên cơ sở BLDS năm 1995 giao cho NHNN quy định mức lãi suất quá hạn. Nhưng từ năm 2006 trở đi, nếu vẫn áp dụng mức lãi suất quá hạn này là không đúng pháp luật, vì BLDS năm 2005 quy định mức lãi suất quá hạn được tính “theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ” (Điều 474 khoản 5). Hai quy định này có sự chênh lệch rất đáng kể, nhất là trong thời kỳ lãi suất có sự biến động lớn.

- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng. Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng.

- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con - đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính) hoặc lập thành một hợp đồng phụ kèm theo hợp đồng chính. Trên thực tế các bên thường kí kết hợp đồng phụ (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh) theo thể thức luật định nhằm thể hiện rõ ý chí của mình trong việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. 

3.2. Quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng.

Việc giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:

* Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.

Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay.

* Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:

Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. 

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng : là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng  và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.

* Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng:  Đây là giai đoạn cuối cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng

3.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng được quy định tại điều 24 và 25 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001. 

Bên ngân hàng cho vay có các quyền sau:

+ Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay;

+ Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp.

+  Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng;

+ Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng;

+ Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật;

+ Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ 

+ Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ theo quy định;

+ Mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam .

-  Bên ngân hàng cho vay có các nghĩa vụ sau :

+  Giải ngân cho bên vay theo đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; 

+  Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; 

+  Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.

Trong số các nghĩa vụ của bên cho vay, thì nghĩa vụ giải ngân là quan trọng nhất. Nếu nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ khác của hai bên.

b) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay -  Bên vay vốn có các quyền sau :

+ Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không đúng với các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;

+ Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng của ngân hàng theo quy định của pháp luật.

-  Bên vay vốn có các nghĩa vụ sau :

+ Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng;

+ Sử dụng tiền vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận +  Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;

+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận 

3.4 Hiệu lực hợp đồng tín dụng.

Điều kiện có hiệu lực của HĐTD: Dựa trên quy định của BLDS 2005 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:

Chủ thể tham gia phải có đủ năng lực pháp luật và năng lục hành vi dân sự

Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật và đạo đức xã hội

Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên tham gia trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tự do ý chí. Một hợp đồng bị coi là không có sự đồng thuận khi rơi vào một trong các trường hợp sau: sự nhầm lẫn, sự lừa dối, ép buộc, cưỡng bức trong giao kết hợp đồng.

Hình thức của HĐTD phù hợp với quy định của pháp luật Ngân hàng, trong quá tringh thực hiện hình thức của HĐTD được xem như là một trong những điều kiện của hợp đồng.

* Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD:

Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên thực tế, pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD.

* Sự vô hiệu của  HĐTD và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu: 

Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu. Xác định trạng thái vô hiệu tuyệt đối hoặc tương đối dựa trên cơ sở:

- Nếu giao dịch được xác lập nhưng vi phạm những quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích công hay trật tự công thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó đương nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập, có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu.

- Nếu giao dịch được xác lập nhưng chỉ vi phạm các quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích tư hay quyền lợi tư của các bên tham gia vào giao dịch thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối) và chỉ những người có quyền lợi bị xâm hại (bao gồm các bên của giao dịch hoặc người thứ ba không tham gia vào giao dịch nhưng có quyền lợi liên quan) mới có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình. 

3.5. Thực hiện hợp đồng tín dụng.

Thực hiện HĐTD là việc các bên chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ đã phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Trong quá trình thực hiện, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định như: thực hiện đúng các cam kết hợp đồng: thực hiện một các trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau: không phạm lợi ích công cộng và quyền, lợi ích của chủ thể khác. 

Nếu các bên thực hiện đúng các cam kết trong HĐTD thì hợp đồng sẽ chấm dứt hiệu lực khi tất cả các quyền, nghĩa vụ của các bên đã được thực hiện xong và các bên có trách nhiệm thực hiện việc thanh lý hợp đồng.

Nếu một bên hoặc cả hai bên vi phạm các cam kết trong HĐTD thì về nguyên tắc bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình. Trách nhiệm pháp lý trong trường hợp này sẽ được áp dụng theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.

3.6.Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD:

Việc thực hiện hợp đồng không đúng cam kết (tức là vi phạm hợp đồng tín dụng) là căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với bên vi phạm. Và việc truy cứu trách nhiệm pháp lí chính là một trong những biện pháp để hỗ trợ cho việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng.

Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều kiện:

- Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD. 

- Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.

- Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.

- Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác.

Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:

- Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt hại vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài phán có thẩm quyền.

3.7.  Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng.

Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài. Vì thế không phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì có tranh chấp hợp ðồng mà tuy vào hoàn cảnh cụ thể ðể xác ðịnh ðúng ðắn và chính xác thời ðiểm phát sinh tranh chấp.

Theo pháp luật Viêt Nam, tranh chấp này sẽ được giải quyết bằng những con đường sau đây:

- Tự thương lượng: Thương lượng và phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ 3 nào.

- Hòa giải: Là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp.

- Trọng tài thương mại: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng được các nhà kinh doanh ưa chuộng.Đó là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuản tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành.

- Tòa án: Phương thức giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng thông qua tòa án thông thường là hình thức cuối cùng mà các bên lựa chọn trong trường hợp thương lượng hoặc hòa giải không thành công. Việc phải nhờ đến quyền lực nhà nước để giải quyết mâu thuẫn thường là lúccác bên không còn phương án nào khác, do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. 

4 Quy định của pháp luật  về một số vấn đề liên quan khác đối với hoạt động cho vay của TCTD

4.1 Quy định về lãi suất.

Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể mức lãi suất cho vay, mà mức lãi suất cho vay là do TCTD và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của NHNN Việt nam, theo Thông tư 12/2010/TT-NHNN: “Tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả; Tổ chức tín dụng niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay…”

Như vậy, NHNN không đưa ra một mức lãi suất cụ thể mà các TCTD tự thỏa thuận với khách hàng cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD có thể linh hoạt hơn trong hoạt động cho vay.

4.2. Quy đinh về giới hạn cho vay 

Trong hoạt động cho vay phải tuân thủ quy định về giới hạn cho vay. Theo quy định tại điều 127, Luật các TCTD :“Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô…” khoản 1,2 Điều 18 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN: “Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”

Trong xu thế hội nhập kinh tế các doanh nghiệp trong nước cần có sự mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư đồng thời vẫn đảm bảo được giới hạn cho vay tối đa của các ngân hàng, các ngân hàng đã cho vay hợp vốn. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn tiền vay pháp luật buộc các TCTD phải thực hiện báo cáo với NHNN đối với khách hàng có tổng dư nợ tiền vay 5% so với vốn tự có của ngân hàng. 

4.3 Quy định về hạn chế cho vay

Theo quy định tại điều 126 Luật các TCTD năm 2010 và Điều 19 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN xác định rõ trường hợp mà TCTD không được cho vay : thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc ( Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương của tổ chức tín dụng; Cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương. Các trường hợp hạn chế cho vay tại khoản 4, khoản 5, khoản 6 Điều 126: TCTD không được cho vay không có bảo đảm hoặc cho vay ưu đãi về lãi suất đối với khoản 1 Điều 126, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát; không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD tổ chức tín dụng hoặc công ty con của TCTD ; không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác trên cơ sở nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu. Các quy định nhằm ngăn ngừa những hiện tượng lợi dụng chức vụ, quyền hạn, ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra, góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt độn cho vay của các TCTD.

4.4 Quy định về tỉ lệ đảm bảo an toàn và dự phòng rủi ro

Theo quy định tại Điều 130 Luật các TCTD : “Tỷ lệ khả năng chi trả; Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% hoặc tỷ lệ cao hơn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ;  Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn; Trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa so với vốn tự có; Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi; Các tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn so với tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn” Để hoàn thiện môi trường pháp lý về quy chế hoạt đọng tín dụng và rủi ro tín dụng NHNN đã ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Theo đó, Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng .

Theo quy định tại Điều 131 Luật các TCTD thì TCTD phải dự phòng rủi ro : “dự phòng rủi ro này được hạch toán vào chi phí hoạt động; Việc phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động do Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ Tài chính”. Theo Khoản 3, Điều 3 Thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định: “Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng rủi ro gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.” Việc quy định dự phòng rủi ro ở mỗi quốc gia là khác nhau tùy thuộc vào khả năng đánh giá và kiểm soát rủi ro . Ngoài biện pháp dự phòng trên TCTD còn phải tuân thủ và duy trì dự trữ bắt buộc theo Điều 11, Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế dự trữ bắt buộc đối với các TCTD theo nguyên tắc: “Số dư bình quân tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước không thấp hơn tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ. Số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước hàng ngày trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc có thể thấp hơn hoặc cao hơn tiền dự trữ bắt buộc của kỳ đó”.

No comments:

Post a Comment