23/01/2015
Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo theo Luật Tố tụng Hình sự và phương hướng hoàn thiện - 8 điểm
Bài tập học kỳ Luật Tố tụng Hình sự có đáp án.

Theo quy định tại Điều 9 BLTTHS “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thì bị can, bị cáo là những người chưa có tội. Bị can, bị cáo là những người bị ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi cũng như phải chịu những nghĩa vụ nhất định của pháp luật đặc biệt là trong pháp luật tố tụng hình sự. Địa vị pháp lý của hai đối tượng này ngày càng được thể hiện rõ nét hơn trong các quy định của pháp luật TTHS. Vậy để hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa của bị can, bị cáo trong TTHS, em xin chọn đề bài: “Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.”


B. NỘI DUNG

I. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ:

1. Khái niệm:

Để làm rõ quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trước hết ta phải làm rõ khái niệm một người như thế nào được gọi là bị can, bị cáo; thời điểm xác định tư cách đó là thời điểm nào.

1.1 Bị can (Điều 49 BLTTHS):

Bị can là “người đã bị khởi tố về hình sự” và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra theo Điều 164 BLTTHS, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án (Điều 169 BLTTHS); Tòa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo Điều 180) đối với bị can hoặc Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự họ trở thành đối tượng bị buộc tội nhưng không phải người có tội. Việc kết luận họ có tội hay không thuộc thẩm quyền của Tòa án bẳng bản án có hiệu lực pháp luật “ Không ai bị �oil à có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9 BLTTHS). Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Yêu cầu này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất định đối với họ để xác định sự thật mà không được đối xử với họ như những người phạm tội. Bên cạnh các nghĩa vụ bị can còn được pháp luật quy định cho các quyền tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình không bị xâm phạm. Các quyền và nghĩa vụ của bị can được quy định tại khoản 2, 3 Điều 49 BLTTHS

1.2 Bị cáo (Điều 50 BLTTHS):

Bị cáo là “ người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (Điều 50 BLTTHS). Bị cáo tham gia vào quá trình tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (khoản 2 Điều 276 BLTTHS). Với quyết định này tư cách bị can chấm dứt và từ khi đó tư cách bị cáo xuất hiện có những quyền và nghĩa vụ khác với bị can ( được quy định tại Điều 50). Cũng theo tinh thần Điều 9 thì bị cáo không phải là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Cũng như bị can, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của mình pháp luật tố tụng quy định cho bị cáo những quyền và nghĩa vụ nhất định được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 50 BLTTHS.

Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ cho bị can, bị cáo. Chỉ với tư cách bị can, bị cáo họ mới có những quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 49, 50 BLTTHS. Và tổng thể các quy định của pháp luật tạo nên địa vị pháp lý của họ trong quá trình tố tụng.

2. Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự:

Bị can hay bị cáo chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một người khi ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Do vậy ngoài những quyền riêng có của từng đối tượng thì họ đều có chung các quyền khi ở các giai đoạn. Tương ứng với mỗi quyền mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo là nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể tiến hành tố tụng, có như vậy quyền của những người này mới được đảm bảo.

2.1. Quyền chung của bị can, bị cáo:

Theo quy định tại Điều 49, 50 BLTTHS thì bị can bị cáo có một số quyền giống nhau. Tuy nhiên vì tư cách tham gia tố tụng khác nhau nên việc thực hiện quyền của các chủ thể cũng có những nét đặc thù nhất định.

▪ Quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ: Sau khi nhận quyết định khởi tố thì bị can có quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ của mình ( khoản 6 Điều 126 và Điều 49 BLTTHS) : “ Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại điều 49 của Bộ luật này”. Đây là quyền tối thiểu của bị can, bị cáo. Việc quy định cho các bị can, bị cáo có quyền giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình cũng đồng nghĩa với việc pháp luật đã quy định trách nhiệm cho người tiến hành tố tụng. Do đó khi áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm giữ và tạm giam, các cơ quan tiến hành tố tụng đều phải giải thích cho đối tượng bị áp dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Trong các văn bản áp dụng pháp luật TTHS (các lệnh bắt, luyết định tạm giữ hay lệnh tạm giam) đều phải đọc, giải thích rõ cho đối tượng. a

▪ Quyền nhận được các quyết định cần thiết: Theo quy định tại Điều 49, Điều 50 BLTTHS thì bị can được nhận quyết định khởi tố, bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ngoài ra bị can, bị cáo còn được nhận quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án…Và tương ứng với các quyền này là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giao các quyết định cho bị can, bị cáo đúng trình tự thủ tục bằng hình thức văn bản, có căn cứ và đúng luật.

Bị can, bị cáo có quyền nhận các quyết định này vì nó liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Bị can phải được nhận quyết định khởi tố vì chỉ có quyết định này mà họ tham gia tố tụng với tư cách bị can. Quyết định này tạo điều kiện cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác. Hay như đối với bị cáo thì quyền nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng nhất đối với họ. Vì quyết định này đã thay đổi tư cách tham gia tố tụng của họ từ bị can chuyển sang bị cáo. Dựa vào nội dung của quyết định này, bị cáo biết được tội danh họ bị đưa ra xét xử, thời gian, địa điểm mở phiên tòa, tên của những người tham gia tiến hành tố tụng, vật chứng xem xét tại phiên tòa… Trên cơ sở đó, họ mới có thể thực hiện các quyền của mình như quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, quyền bào chữa. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải gửi cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước ngày xét xử (khoản 1 Điều 182 BLTTHS). Nếu không đảm bảo về mặt thời gian này thì bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa.

▪ Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị can, bị cáo là người bị nghi ngờ là có tội nên những quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới quyền, lợi ích chính đáng của họ. Hơn thế nữa để đảm bảo tính khách quan trong quá trình tố tụng nên pháp luật ghi nhận quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng của bị can, bị cáo (khoản 2 Điều 43 BLTTHS). Khi có các căn cứ quy định tại Điều 42,44, 45, 46, 47, và khoản 4 Điều 60, khoản 3 Điều 61 BLTTHS : có căn cứ cho rằng không vô tư khi làm nhiệm vụ…thì bị can, bị cáo có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền thay đổi những người đó. Và cơ quan có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết yêu cầu của bị can, bị cáo nếu đó là đề nghị có căn cứ. Bị cáo thực hiện quyền này trong giai đoạn bắt đầu phiên tòa và thẩm quyền quyết định thuộc về Hội đồng xét xử ( Điều 202 BLTTHS).

▪ Quyền đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Bị can, bị cáo đều có quyền để cung cấp những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án (điểm d khoản 2 Điều 49 và điểm đ khoản 2 Điều 50 BLTTHS) Thường thì những tài liệu, đồ vật này có ý nghĩa gỡ tội cho bị can, bị cáo, chứng minh họ không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Cơ quan điều tra, Hội đồng xét xử khi nhận được các tài liệu, đồ vật do bị can hoặc bị cáo cung cấp phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.

Bên cạnh đó bị can, bị cáo cũng có quyền đưa ra các yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu hoãn phiên tòa , yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, yêu cầu điều tra lại …

▪ Quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa: Có thể nói đây là quyền quan trọng của bị can, bị cáo. Nó là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định tại Điều 11 BLTTHS “ Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan Điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ đảm bảo cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Việc quy định cho bị can, bị cáo quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa nhằm mục đích nhấn mạnh quyền được chống lại việc buộc tội, quyền tự bảo vệ mình của bị can, bị cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Thực tiễn cho thấy, việc bảo đảm quyền bào chữa không chỉ biểu hiện dân chủ, mà còn là điều kiện cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng đạt được kết quả cao. Do tầm quan trọng của nó mà quyền này được Hiến pháp quy định và là một nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS. Quyền bào chữa là một tổng thể các quyền và những biện pháp tố tụng cần thiết đảm bảo cho người bị tam giữ, bị can, bị cáo tích cực tham gia TTHS; có khả năng thực tế để bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội; có khả năng chủ động tìm kiếm những tình tiết để minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo.Khái niệm quyền bào chữa mà BLTTHS quy định cho bị can, bị cáo đó chính là việc các quyền mà BLTTHS trao cho bị can, bị cáo được thực hiện để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trước việc các cơ quan và những người tiến hành tố tụng đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố họ với tư cách bị can, đưa họ ra xét xử; bao gồm cả quyền họ được chứng minh là mình không có tội hoặc có những tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong khi đó, đảm bảo quyền bào chữa được xem là cơ chế thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Điều này đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng, các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước khác phải tạo điều kiện giúp bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa

Theo quy định của BLTTHS, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên trên thực tế do kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa và có thể đang bị giam giữ nên việc thực hiện tự bào chữa tỏ ra không có hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này pháp luật quy định thêm quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS thì người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can trừ trường hợp bắt người theo Điều 81 và Điều 82 BLTTHS thì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ (khoản 1 điều 58). Những người này sẽ tham gia vào TTHS để nhằm bác bỏ toàn bộ hoặc một phần sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo. Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, có nhược điểm tâm thần hoặc thể chất, hoặc có mức hình phạt cao nhất là tử hình thì theo quy định tại khoản 2 Điều 57 thì bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.

Tự bào chữa hoặc người khác bào chữa là quyền của bị can, bị cáo không phải là nghĩa vụ của họ. Do vậy, bên cạnh việc quy định các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư phân công bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo thì cũng quy định quyền của những người này và người đại diện hợp pháp của họ được quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa (khoản 2 Điều 57BLTTHS). Trong trường hợp bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ đều từ chối người bào chữa đã được cử và không yêu cầu người bào chữa khác thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử không cần phải có người bào chữa.

▪ Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan hay người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Họ thực hiện quyền này khi cho rằng, những quyết định và những hành vi tố tụng này là trái pháp luật như bắt người chưa đủ căn cứ; trong quá trình điều tra xét hỏi, cán bộ điều tra đã truy bức, mớm cung hoặc thu thập chứng cứ không đúng thủ tục... Quyền khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định. BLTTHS đã quy định nguyên tắc “bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS” tại Điều 31 và một số điều luật có liên quan về quyền khiếu nại của người tham gia tố tụng. Mặt khác, BLTTHS còn bổ sung một chương riêng (Chương XXXV) quy định về khiếu nại, tố cáo trong TTHS, quy định cụ thể quyền của những người khiếu nại và người bị khiếu nại, trình tự, thủ tục thực hiện khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

2.2. Các quyền đặc trưng của bị can, bị cáo:

* Đối với bị can có các quyền riêng sau:

▪ Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Bị can cần phải biết tội danh mà họ bị khởi tố. Trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ tội danh, điều khoản luật được áp dụng đối với bị can. Đây cũng chính là một trong những căn cứ để cho cơ quan có thẩm quyền có quyền buộc tội và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với họ. Đồng thời với căn cứ này giúp cho họ có thể đảm bảo được quyền bào chữa, phủ nhận việc buộc tội đó đối với họ.

* Đối với bị cáo thì có các quyền riêng sau :

▪ Quyền tham gia phiên tòa: Quyền tham gia phiên tòa không chỉ là quyền mà còn là vấn đề mang tính nguyên tắc. Chính tại phiên tòa, quyền bình đẳng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng được thể hiện rõ nhất. Về nguyên tắc bị cáo phải có mặt ở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Trường hợp bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì có thể phải hoãn phiên tòa (khoản 1 Điều 187 BLTTHS). Khoản 2 Điều 187 thì quy định những trường hợp được xét xử vắng mặt bị cáo.

▪ Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án: (Điều 220 BLTTHS): Pháp luật quy định không được đặt câu hỏi khi bị cáo nói lời sau cùng. Điều này nhằm tạo điều kiện để bị cáo có cơ hội được bày tỏ thái độ và nguyện vọng của mình trước Hội đồng xét xử đưa ra những quyết định đối với vụ án.

▪ Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại tòa: Bị cáo có quyền được trình bày ý kiến, tranh luận của mình tại phiên tòa; được nói lời sau cùng trước khi nghị án. Tại Điều 220 BLTTHS thể hiện rõ quyền này, với nội dung không hạn chế thời gian đối với bị cáo khi họ trình bày những lời cuối cùng trước khi Tòa án nghị án để phán quyết đối với họ. Không được đặt câu hỏi đối với họ. Nếu họ trình bày thêm những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại phần xét hỏi. Pháp luật quy định quyền này là tạo điều kiện để bị cáo có cơ hội được bày tỏ thái độ và nguyện vọng của mình trước khi Hội đồng xét xử đưa ra những quyết định đối với vụ án. Đồng thời, sự ghi nhận quyền này của bị cáo thể hiện sự tôn trọng quyền con người của bị cáo trong TTHS cụ thể là quyền bình đẳng trước tòa án, nêu cao tinh thần dân chủ của pháp luật XHCN, đảm bảo cho bị cáo được tham gia một cách tích cực và quá trình xét xử, đồng thời đảm bảo quyền tự bào chữa của bị cáo đã được pháp luật ghi nhận (Điều 11), mặt khác cũng chính là đảm bảo cho hoạt động xét xử được khách quan, toàn diện, thể hiện tính dân chủ trong phiên tòa.

▪ Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án: Quyền kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm là một quyền quan trọng của bị cáo. Trình tự, thủ tục kháng cáo và trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền này được quy định từ Điều 231 đến Điều 240 của BLTTHS. Việc kháng cáo của bị cáo đối với các quyết định hoặc bản án sơ thẩm sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là khi có kháng cáo thì bản án sơ thẩm chưa được đem ra thi hành. Việc tạm đình chỉ thi hành một phần hay toàn bộ bản án hoặc quyết định bị kháng cáo là tuỳ thuộc vào nội dung kháng cáo. Ngoài ra, khoản 2 Điều 255 BLTTHS quy định trường hợp mà bị cáo đang bị tạm giam mà Toà án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự (TNHS), miễn hình phạt cho bị cáo, tuyên các hình phạt không tước tự do hoặc tuyên án tù nhưng thời hạn ngắn hơn (hoặc bằng) thời hạn tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Toà án sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo (hoặc kháng nghị).

Việc quy định quyền kháng cáo của bị cáo là đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo tới cùng, bảo đảm quyền lợi của họ. Bị cáo có quyền kháng cáo một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định chưa có hiệu lực của tòa án sơ thẩm. Khi kháng cáo hợp lệ, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét và giải quyết quyền kháng cáo của bị cáo. Để bị cáo có thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo, luật tố tụng hình sự quy định nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng nào khác thì Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền sửa bản án theo hướng bất lợi cho bị cáo ( khoản 3 Điều 249 BLTTHS).

* Ngoài các quy định về quyền cho các bị can, bị cáo, pháp luật cũng buộc các đối tượng này phải chịu những nghĩa vụ nhất định đó là: phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng, trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã (Điều 49, Điều 50 BLTTHS).

Như vậy ta có thể thấy các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo đã được mở rộng hơn so với trước đây (quyền nhận các quyết định tố tụng, quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ), và được quy định tập trung thành điều khoản nhất định tại hai Điều luật là Điều 49 và Điều 50 của Bộ luật. Bên cạnh đó, các quyền và nghĩa vụ này còn được cụ thể và chi tiết hóa ở các Điều luật khác. Nhìn chung, quyền và nghĩa vụ của bị can và bị cáo không có gì khác nhau nhiều lắm. Bởi thực chất bị can hay bị cáo chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một người khi họ ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát đình chỉ vụ án; Tòa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can; hoặc Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Còn bị cáo là người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa là, nếu như tư cách tố tụng của bị can chấm dứt do có quyết định của Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì lúc này họ sẽ tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo. Tuy nhiên, do tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng cho nên bên cạnh những quyền chung thì bị can và bị cáo cũng có những quyền đặc thù cho các giai đoạn tố tụng.

II. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO:

Nhìn một cách tổng quát, các quy định này đã đảm bảo được quyền con người của bị can, bị cáo, tuy nhiên thực tiễn xét xử các quy định này vẫn còn tồn tại một số bất cập khiến cho việc thi hành các quy định này còn nhiều bất đồng, mâu thuẫn, nổi cộm lên một số vấn đề sau:

Thứ nhất, việc thực hiện quyền đưa ra chứng cứ và yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Lâu nay, không ít người trong cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thấy hết tầm quan trọng của việc bảo đảm thực hiện đúng quyền này, dẫn đến vi phạm một cách nghiêm trọng như không kiểm tra, xem xét thật khách quan những chứng cứ hay yêu cầu mà bị can, bị cáo đưa ra, mà thường là vội vàng bác bỏ khi thấy không phù hợp với hướng điều tra của mình. Những sai phạm đó có thể thấy ngay trong cách đặt câu hỏi với bị can. Những câu hỏi chỉ có dạng trả lời “có” hay “không” đã không gợi mở và tạo cho bị can cơ hội được đưa ra những chứng cứ và yêu cầu của mình. Thậm chí, sự không tôn trọng quyền của bị can có thể dẫn đến việc mớm cung, bức cung và dùng nhục hình. Không ít cán bộ điều tra đã muốn rằng những lời khai của bị can phải phù hợp với chứng cứ mà họ thu thập được mà không phải là những lời khai phản ánh đúng sự thật vụ án. Nếu chứng cứ mà bị can đưa ra mâu thuẫn với những chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được sẽ khiến cho cơ quan điều tra có thể quy kết bị can quanh co, chối tội gây khó khăn kéo dài vụ án.

Một vấn đề khác là với quy định tại Điều 64, 65 BLTTHS về chứng cứ thì theo đó, chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án thu thập được và dùng làm căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội. Với nội dung này thì chỉ những gì cơ quan tiến hành tố tụng thu thập mới được coi là chứng cứ, còn những gì mà người bào chữa thu thập được, những gì mà bị can, bị cáo tự đưa ra để nhằm gỡ tội cho mình sẽ không được coi là chứng cứ. BLTTHS hiện hành đã không có một quy định nào về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của bên gỡ tội cũng như không có quy định nào về cơ chế đảm bảo cho bị can, bị cáo thu thập chứng cứ hoặc coi các tài liệu, đồ vật mà họ đưa ra là chứng cứ (được đánh giá bình đẳng như chứng cứ mà các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập được).

Thứ hai, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa. Mặc dù pháp luật TTHS đã quy định về quyền bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng thực tiễn áp dụng đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Với phạm vi đối tượng người bào chữa khác nhau như đã đề cập trên, dẫn đến hệ quả là chưa chắc đã đảm bảo chất lượng, tính chuyên nghiệp và khả năng thực tế để họ thực hiện việc bào chữa. Xu hướng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ đến với các Văn phòng luật sư ngày một nhiều, nhưng số lượng luật sư của Việt Nam còn hạn chế. Cả nước ta hiện nay có hơn 4.000 luật sư nhưng tập trung chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với gần 3.000 luật sư. Số còn lại ở 62 tỉnh, thành phố chỉ có khoảng hơn 1.000 luật sư (�).

Về người bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng: trường hợp bị can, bị cáo bị khởi tố về tội theo khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc họ là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần /thể chất thì ngay cả khi họ không lựa chọn người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải cử người bào chữa cho họ. Nếu họ từ chối bào chữa thì Hội đồng xét xử có trách nhiệm giải thích cho họ biết người bào chữa sẽ giúp gì cho họ và chi phí cho người bào chữa sẽ do Toà án thanh toán. Và nếu họ vẫn kiên quyết từ chối việc bào chữa thì sẽ ghi vào biên bản phiên toà và vụ án vẫn được xét xử theo thủ tục chung mà không cần người tham gia bào chữa (Nghị quyết số 03/2004 ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC). Tuy nhiên, khi thực hiện quy định này đã nảy sinh vấn đề là bị can, bị cáo hay người đại diện hợp pháp của họ đã từ chối người bào chữa trong giai đoạn điều tra, sau đó đến giai đoạn xét xử, họ lại yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng của người bào chữa thì yêu cầu này có được chấp nhận hay không? Vấn đề này hiện nay chưa được quy định cụ thể.

Thứ ba, về điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân: Với những quy định hiện hành của BLTTHS thì đã làm nảy sinh một vấn đề là phạm vi những người là bào chữa viên nhân dân rất hạn chế bởi giới hạn 2 điều kiện: (1) người là thành viên của MTTQVN hoặc tổ chức thành viên và (2) được cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thực tiễn cho thấy, có rất nhiều người có trình độ chuyên môn về pháp luật (chẳng hạn họ đã từng công tác ở các cơ quan bảo vệ pháp luật đã chuyển ngành hoặc các nhà khoa học luật...) nhưng không được tham gia bào chữa vì giới hạn 2 điều kiện nói trên. Trong khi đó, quy định về bào chữa viên nhân dân là nhằm mục đích trợ giúp pháp lý, bào chữa miễn phí cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và sự mở rộng phạm vi người bào chữa phù hợp với chủ trương xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý cho nhân dân, trong đó có người nghèo và đối tượng chính sách đã được nêu trong các Nghị quyết gần đây của Bộ chính trị, như Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020 và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Thứ tư, việc xác định người đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Thực tiễn xét xử ghi nhận một số trường hợp xác định sai người đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng �. BLTTHS hiện hành không có quy định cụ thể xác định ai là người được xem là người đại diện hợp pháp của bị cáo nhưng căn cứ vào sự tương thích giữa pháp luật TTHS với các văn bản pháp luật khác (ví dụ như Điều 141 BLDS 1995) thì họ bao gồm: cha, mẹ (đối với con chưa thành niên); người giám hộ (đối với người được giám hộ - đương nhiên hoặc được cử). Thực tiễn xét xử đã không thống nhất khi xác định đối tượng này: có toà án xác định họ là bố, mẹ bị cáo; toà án khác lại xác định là anh, chị, cô, dì, chú, bác... là người đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ của bị cáo; Có toà án lại xác định đại diện nhà trường, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... là đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ của bị cáo. Rõ ràng, thực tế việc xác định tư cách của người đại diện hợp pháp của bị cáo không chính xác với quy định của BLTTHS. Thậm chí, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, Toà án đã chấp nhận một số trường hợp người bào chữa là người đại diện theo uỷ quyền �.

Mặc dù BLTTHS đã quy định về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa nhưng thực tiễn đã nảy sinh những trường hợp cơ quan điều tra không cấp giấy chứng nhận bào chữa và cũng không giải thích lý do. Có rất ít các vụ án mà thời gian cấp giấy chứng nhận bào chữa là ba ngày như quy định của pháp luật. Những đòi hỏi của cơ quan điều tra đối với các loại giấy tờ của người bào chữa cũng không thống nhất do bản thân các quy định trong pháp luật không cụ thể. Điều này dẫn tới những rườm rà, phiền hà trong việc thực hiện yêu cầu cấp giấy chứng nhận bào chữa của người bào chữa �. Việc pháp luật quy định sự có mặt của người bào chữa khi hỏi cung bị can và trong các hoạt động điều tra khác là nhằm đảm bảo thực hiện quyền bào chữa, nhưng thực tiễn thi hành quy định này còn mang tính hình thức.

Để các quyền của bị can, bị cáo được đảm bảo thực thi có hiệu quả trên thực tế thì cần phải có những giải pháp đồng bộ từ các giải pháp sửa đổi luật, tới các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật, tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật tới cộng đồng. Cụ thể:

Một là, thừa nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS:

Để đảm bảo thực hiện được cơ chế bảo vệ quyền của bị can, bị cáo trong TTHS thì cần thừa nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS với những nội dung cơ bản:

+ Quy định cụ thể các bên tham gia tranh tụng như Công tố viên, người bào chữa, bị cáo, người bị hại...;

+ Khẳng định quyền bình đẳng của các bên tham gia tranh tụng trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra các yêu cầu, xét hỏi và tranh luận dân chủ trước Toà án, đồng thời xác định trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm các bên thực hiện các quyền đó;

+ Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà.

Từ phương diện bảo vệ quyền của bị can, bị cáo trong TTHS, sự ghi nhận nguyên tắc này phải là cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó trên thực tế. Chẳng hạn, với một mô hình như quy định hiện hành đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh vụ án lên Hội đồng xét xử, đòi hỏi ở Tòa án một vai trò quá tích cực không cần thiết trong tranh tụng. Do vậy, BLTTHS phải được sửa đổi nhiều nội dung cho phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc này. Cụ thể là:

- Sửa đổi Điều 10 BLTTHS theo hướng khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử và không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhưng Toà án sẽ thực hiện nhiệm vụ đó thông qua chức năng xét xử của mình. Toà án không phải là người truy tố bị cáo nên Toà án không có nghĩa vụ chứng minh là bị cáo có tội. Nghĩa vụ đó thuộc về các Cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng buộc tội là cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát.

- Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 57 BLTTHS theo hướng trong những trường hợp nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ, khi mà họ bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình được quy định trong BLHS (hiện nay là chỉ áp dụng đối với mức tử hình). Thực tiễn cho thấy số lượng phiên toà hình sự xét xử có người bào chữa chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều này có thể do nhiều lý do như: do trình độ nhận thức pháp luật của phần lớn bị cáo còn hạn chế, hoàn cảnh kinh tế không cho phép, đối tượng được trợ giúp pháp lý còn rất hạn hẹp... Bởi vậy, BLTTHS cần mở rộng đối tượng được hưởng sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.

- Sửa đổi, bổ sung Điều 190 BLTTHS quy định về sự có mặt và sự tham gia tranh tụng của người bào chữa tại phiên toà. Cần quy định sự có mặt của người bào chữa là bắt buộc. Trường hợp họ vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.

- Sửa đổi Điều 196 về giới hạn của việc xét xử theo hướng để Toà án trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vượt quá giới hạn truy tố của VKS nếu điều đó làm bất lợi cho bị cáo. Toà án chỉ có thể vượt quá giới hạn truy tố của VKS nếu không làm bất lợi cho bị cáo, không ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo. Hiện nay, theo Điều 196 BLTTHS “Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố”.

- Bỏ quy định tại Điều 222 khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố. Điều 222 BLTTHS quy định về Nghị án, tại Khoản 2 có quy định “Trong trường hợp KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự được quy định tại khoản 1 điều này” – tức là theo trình tự như khi VKS không rút quyết định truy tố. Nên quy định trong trường hợp này, Toà án chỉ có một lựa chọn duy nhất là tuyên bị cáo vô tội. Khi VKS rút quyết định truy tố có nghĩa là bên buộc tội đã khẳng định rằng việc buộc tội bị cáo không còn có cơ sở và căn cứ. Họ từ chối buộc tội, chức năng buộc tội đã chấm dứt; chức năng bào chữa sẽ không còn tồn tại và chức năng xét xử cũng không có lý do để tiếp tục nữa.

Hai là, về trình tự và thủ tục xét hỏi tại phiên toà: cần tăng cường tính tranh tụng của phiên toà sơ thẩm và coi đây là bước đột phá theo Nghị quyết 49/NQ-TW, cụ thể sửa đổi thủ tục xét hỏi tại phiên toà theo hướng tham gia vào thủ tục xét hỏi chỉ có các bên tranh tụng. Bên buộc tội là VKS và người bị hại, nguyên đơn dân sự; Bên bào chữa là người bào chữa, bị cáo, bị đơn dân sự. Toà án là người điều khiển các bên, điều khiển quá trình xét hỏi. Khi Toà án đã trở về vai trò là trọng tài, điều khiển tranh tụng của các bên thì cần thay đổi quy định Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ trước khi xét xử. Thẩm phán chỉ nghiên cứu ở khía cạnh hồ sơ có tuân thủ các thủ tục tố tụng, hồ sơ có đủ điều kiện về thủ tục để đưa ra xét xử hay không? Còn vấn đề chứng cứ thu thập trong hồ sơ thế nào, có đủ để chứng minh lỗi của bị cáo hay không, tội danh mà VKS truy tố bị cáo có phù hợp với chứng cứ hay không... không phải là mối quan tâm của Thẩm phán. Đó là trách nhiệm và mối quan tâm của bên buộc tội. Liên quan đến phần tranh luận, Điều 217 và 218 của BLTTHS hiện hành đã thể hiện được tính dân chủ, khách quan hơn so với quy định của BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, vẫn cần sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia tranh luận, trách nhiệm của Chủ toạ phiên toà phải đảm bảo cho việc tranh luận diễn ra dân chủ, khách quan, tạo điều kiện cho các bên trình bày hết ý kiến, không hạn chế thời gian tranh luận...

Tổ chức một phiên toà Phiên toà sơ thẩm tranh tụng có tác động tích cực đến giai đoạn điều tra �. Khi một phiên toà sơ thẩm có tính tranh tụng và Toà án trở về với vai trò đích thực là trọng tài vô tư khách quan, Toà án chỉ xét xử chứ không buộc tội thay cho VKS hay là cùng với VKS buộc tội bị cáo. Khi đó, VKS sẽ không thể không tham gia tranh tụng tích cực, cũng có nghĩa là việc truy tố bị cáo được cân nhắc, xem xét một cách thận trọng từ chứng cứ đến tội danh. Trong khi đó, chứng cứ do CQĐT thu thập, nên để có thể bản lĩnh, tự tin tranh tụng bình đẳng, thẳng thắn với bên gỡ tội, thì VKS không thể dễ dàng với CQĐT cũng như những kết quả hoạt động của CQĐT. Bất kỳ sự dễ dàng nào của VKS với CQĐT về việc tuân thủ các yêu cầu, trình tự, thủ tục của BLTTHS trong quá trình điều tra thì sau này tại phiên toà sơ thẩm, uy tín của ngành mình nói chung cũng như cá nhân KSV thực hành quyền công tố trước Toà sẽ bị ảnh hưởng.

Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS như trên, trong quá trình thực hiện cần có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện quyền bào chữa như về thủ tục khi người bào chữa gặp bị can, bị cáo, hướng dẫn về các thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo hướng đơn giản hoá. Quy định cho bị can, bị cáo có quyền không bắt buộc khai báo, quyền được gặp gỡ riêng không hạn chế về số lần và thời gian với luật sư bào chữa, quyền được yêu cầu triệu tập người làm chứng, thậm chí quyền được xem, sao chụp không hạn chế hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra (khi họ tự bào chữa cho mình)... Như vậy mới có thể có được sự tranh tụng bình đẳng giữa các các chủ thể, hạn chế thấp nhất tình trạng oan sai, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của bị can, bị cáo. Hơn nữa, pháp luật TTHS cũng cần bổ sung quy định và cơ chế ngăn ngừa, chống tiết lộ bí mật điều tra, chống thông cung... trong hoạt động TTHS, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với người bào chữa bổ sung trách nhiệm giữ bí mật điều tra (không chỉ là bí mật nhà nước), không được xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chối tội, phản cung, không được từ chối bào chữa nếu không có lý do chính đáng.

C. KẾT LUẬN:

Như vậy. qua phần nội dung trên cho thấy quyền và nghĩa vục ủa bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đã được BLTTHS quy định tương đối rõ ràng và cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế như đã trình bày trên. Do đó, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo hơn thì chúng ta nên nghiên cứu, tìm hiểu thêm dể đưa ra những giải pháp tích cực nhất. Đồng thời, bên cạnh đó phải động viên tích cực quần chúng nhân dân tham gia vào nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó, có các hình thức như làm người bào chữa trong tố tụng hình sự, kiểm tra giám sát các hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng để đảm bảo quyền như quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

(1) Nguyễn Minh Đức (2008), Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà, Tạp chí kiểm sát, Số 18 và 20 (tháng 9 và 10), tr. 45.

� Đinh Văn Quế (2008), Một số vấn đề cần chú ý khi xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân, 13 (tháng 7), tr.21-24.

� Nguyễn Viết Sách (2005), Những nội dung cần hướng dẫn áp dụng trong các quy định về bào chữa của BLTTHS năm 2003, Tạp chí kiểm sát, Số 24 (tháng 12), tr. 53.

� Phạm Hồng Hải (2005), Thực trạng hoạt động của Luật sư – người bào chữa qua một năm thi hành BLTTHS, Tạp chí kiểm sát, Số 24 (tháng 12), tr. 43.


� Nguyễn Thái Phúc (2008), Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong TTHS theo yêu cầu của CCTP, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8(244), tr. 66-67.

No comments:

Post a Comment