23/01/2015
Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về bắt người trong trường hợp khẩn cấp - Bài tập học kỳ Luật Tố tụng Hình sự
Bắt người là một biện pháp ngăn chặn quan trọng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam góp phần đảm bảo cho hoạt động tố tụng có thể diễn ra bình thường và đạt được hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, bắt người cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, do đó mà khi tiến hành bắt người phải tuân thủ chặt chẽ và nghiêm ngặt các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm đảm bảo những quyền và lợi ích chính đáng của công dân được tôn trọng và đảm bảo. Nhằm có thêm những hiểu biết cho bản thân cũng như làm rõ những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp bắt người, em xin chọn đề tài số 15 làm đề tài nghiên cứu cho bài tập học kì: “Bắt người trong trường hợp khẩn cấp”.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 

I. Bắt người trong khoa học Luật Tố tụng hình sự: 1. Khái niệm.

“Bắt” theo giải thích của từ điển tiếng Việt thì được hiểu là: “nắm lấy, giữ lại, không cho hoạt động tự do, khiến phải làm gì hoặc không cho phép làm điều gì” và đồng nghĩa với các từ: “Buộc, ép”[footnoteRef:1]. Như vậy hiểu theo nghĩa của từ “bắt” thì bắt người là việc giữ một người lại, không cho người đó hoạt động tự do. Ép, buộc, cưỡng chế họ phải làm những việc nhất định theo ý của người khác. [1: http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/B%E1%BA%AFt]

Bộ luật TTHS không đưa ra định nghĩa về biện pháp ngăn chặn bắt người. Tuy nhiên, trong khoa học luật TTHS, biện pháp ngăn chặn bắt người được hiểu như sau:

Bắt người trong TTHS là biện pháp ngăn chặn do những người có thẩm quyền quyết định áp dụng và thực hiện đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật, tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.[footnoteRef:2] [2: Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam – Vũ Gia Lâm - Luận văn thạc sĩ luật học – năm 2000]

2. Mục đích của biện pháp ngăn chặn bắt người.
Bắt người thường là biện pháp ngăn chặn đi liền trước hoặc là tiền đề cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Với tính chất của một biện pháp ngăn chặn, việc bắt người trong TTHS luôn gắn với mục đích nhất định.

Thứ nhất: Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm. Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm rất cần thiết và cấp bách[footnoteRef:3]. Đây cũng là một trong những mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người như bắt người trong trường hợp khẩn cấp (điểm a khoản 1 Điều 81 Bộ luật TTHS) hay bắt người phạm tội quả tang (khoản 1 Điều 82 Bộ luật TTHS). [3: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB. Tư pháp – năm 2006]

Thứ hai: Ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. Sự có mặt của bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng là rất cần thiết. Nếu họ trốn tránh hoặc có hành vi xoá dấu vết, tiêu hủy vật chứng, chứng cứ, tẩu tán tang vật của vụ án ... sẽ làm cho việc giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn, kéo dài, thậm chí bế tắc, vụ án không giải quyết được. Vì vậy, việc bắt người sẽ đảm bảo sự thuận lợi, khách quan trong quá trình thu thập chứng cứ của vụ án, loại trừ những khó khăn mà họ có thể gây ra.[footnoteRef:4] [4: Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam – Vũ Gia Lâm - Luận văn thạc sĩ luật học – năm 2000]

Thứ ba: Ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Để tránh áp dụng biện pháp bắt người tràn lan, không cần thiết, BLTTHS quy định không phải bất kỳ bị can, bị cáo nào cũng có thể bị bắt để tạm giam. Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội chỉ được áp dụng với những người đã bị Toà án khởi tố về hình sự hoặc đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể được xác định trên phương diện nhân thân hay hành vi của bị can, bị cáo.

Thứ tư: Ngăn chặn hành vi gây khó khăn, cản trở việc thi hành án. Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng hình sự. Việc tạo những điều kiện để đảm bảo cho hoạt động thi hành án đạt hiệu quả không chỉ cần thiết khi kết thúc hoạt động xét xử tại phiên toà mà còn phải được thực hiện ngay từ thời điểm vụ án chưa xét xử và có thể được thực hiện bằng biện pháp ngăn chặn bắt người.

3. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bắt người.
Quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong TTHS có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm:

- Là điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền khác đạt hiệu quả, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết được những nhiệm vụ đặt ra trong các giai đoạn tố tụng một cách chính xác, nhanh chóng.

- Bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ trong pháp luật, thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp bắt người không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của cơ quan Nhà nước mà xuất phát từ pháp luật và sự đòi hỏi của thực tiễn.[footnoteRef:5] [5: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB. Tư pháp – năm 2006]

- Những quy định cụ thể về thẩm quyền, căn cứ, thủ tục bắt có ý nghĩa là cơ sở pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp.

II. Quy định của BLLTHS 2003 về biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp khần cấp:
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định các trường hợp bắt người sau: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80); Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81); Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82). Với yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc bắt người cần phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời. Tuy nhiên, không thể vì bất cứ một lý do gì mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn tràn lan, sai tính chất, sai đối tượng, không đảm bảo các yêu cầu của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của công dân. Do đó, những quy định về bắt người thường được ghi nhận rất rõ, đầy đủ về căn cứ, các trường hợp áp dụng, về thẩm quyền và thủ tục áp dụng. Để thấy rõ được điều đó, chúng ta đi sâu phân tích cụ thể trường hợp bắt người trong tố tụng hình sự, đó là: bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

Theo quy định tại Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự có thể hiểu: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là trường hợp bắt người chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hoặc bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm hoặc bắt người mà qua điều tra thấy có dấu vết tội phạm ở người hoặc chỗ ở của họ. Đây là trường hợp bắt có tính chất cấp bách, nếu không thực hiện sẽ không thể kịp thời ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, không chặn đứng được hành vi trốn tránh, gây khó khăn, cản trở việc điều tra.[footnoteRef:6] [6: Nguyễn Hồng Ly, Biện pháp ngăn chặn bắt người và thực tiễn áp dụng của cơ quan cảnh sát điều tra, viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2011]

1. Đối tượng áp dụng.
Đối tượng áp dụng của bắt người trong trường hợp khẩn cấp là người chưa bị khởi tố về hình sự. Nhưng bên cạnh đó không loại trừ cả người đã bị khởi tố hay đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử với tư cách là bị can, bị cáo của vụ án khác nếu hành vi của họ thuộc một trong ba trường hợp mà Khoản 1 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự quy định làm căn cứ để bắt khẩn cấp.

2. Các trường hợp bắt khẩn cấp.
Khoản 1 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự quy định rõ ba trường hợp bắt khẩn cấp:

Thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện:

+ Có căn cứ khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, tức là người đó có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội xảy ra hoặc có thể xảy ra được thuận lợi, dễ dàng như: tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm.

+ Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, tức là tội phạm gây nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Do vậy chỉ khi nào có căn cứ khẳng định hành vi chuẩn bị thực hiện một tội phạm là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì mới bắt khẩn cấp. Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp này là để ngăn ngừa không cho tội phạm rất nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng đang được chuẩn bị, có khả năng gây nguy hại cho mối quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

Thứ hai, khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thầy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.

Trong trường hợp này, việc bắt người cũng cần đáp ứng hai điều kiện:

+ Phải có người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng người đã thực hiện tội phạm. Như vậy, theo quy định của luật hiện hành, trường hợp một người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm nhưng lại không tận mắt chứng kiến hành vi phạm tội hoặc không có mặt tại nơi xảy ra tội phạm nhưng được người khác trực tiếp chứng kiến mô tả lại, kể lại cũng không được coi là căn cứ bắt khẩn cấp. Hoặc trường hợp người đó không tận mắt chứng kiến, mà chỉ nhận biết tội phạm bằng giọng nói, ví dụ như do trời tối, không quan sát được… cũng không đủ điều kiện để bắt khẩn cấp trong trường hợp này.

+ Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn, tức là người đã thực hiện hành vi phạm tội đang có hành động trốn hoặc chuẩn bị trốn hoặc xét thấy có những khả năng để cho rằng người đó có thể trốn, khó có thể triệu tập khi cần thiết như: không có nơi cư trú rõ ràng, đối tượng lưu manh, côn đồ, chưa xác định được nhân thân… Việc xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn tùy thuộc vào sự đánh giá của cơ quan, người có thẩm quyền vào từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, thông qua hành vi thực tế của người phạm tội như đang chuẩn bị trốn hoặc người thực hiện hành vi phạm tội không có nơi cư trú rõ ràng, là đối tượng có nhân thân xấu, nhiều tiền án, tiền sự, lý lịch không rõ ràng…

Thứ ba, khi có dấu vết tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần thiết ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Việc bắt khẩn cấp trong trường hợp này cũng cần đáp ứng đủ hai điều kiện:

+ Phải tìm thấy dấu vết tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Trong trường hợp này, cơ quan, người có thẩm quyền có những tài liệu, chứng cứ nghi một người thực hiện tội phạm và qua quá trình điều tra đã phát hiện những vật, những tài liệu có liên quan đến tội phạm hoặc những dấu vết khác do tội phạm để lại. Việc phát hiện thấy dấu vết này chính là sự khẳng định nghi ngờ của cơ quan, người có thẩm quyền là chính xác.

+ Xét thấy cần ngăn chặn việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, ví dụ như cất giấu công cụ phương tiện phạm tội, xóa bỏ giấu vết tội phạm…

Để nhận định đúng việc người đó có thể trốn theo quy định tại các điểm trên, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ và đánh giá một cách toàn diện về các mặt, như nhân thân người bị bắt (có tiền án, tiền sự, lang thang, không nơi cư trú rõ ràng…), tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và loại tội phạm được thực hiện mà thực tiễn cho thấy người phạm tội thường trốn, như tội trộm cắp tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội cướp tài sản, tội giết người, mua bán trái phép chất ma túy… (Điểm 3.1 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003).

3. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Theo khoản 2 Điều 81 BLTTHS, những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

- Người chỉ huy đơn vị bộ đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;

- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng;

4. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Khoản 3 Điều 81 BLTTHS quy định thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp cũng được tiến hành như trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Nghĩa là việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh bắt. Người thi hành lệnh bắt phải đọc, giải thích lệnh và phải lập biên bản về việc bắt. Khi tiến hành bắt người, phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và người láng giềng chứng kiến.

Với tính chất và đặc điểm của việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp là rất cấp bách nên BLTTHS đã quy định việc bắt người trong trường hợp này không cần có sự phê chuẩn trước của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo cho tính chính xác và tránh lạm dụng bắt khẩn cấp, BLTTHS quy định, trong mọi trường hợp việc bắt khẩn cấp phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản và kèm theo tài liệu liên quan để xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Theo quy định tại Điểm 3.3 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định rõ: Hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát xét phê chuẩn lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp gồm tài liệu sau: Công văn đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; lệnh bắt khẩn cấp (trong đó phải ghi rõ bắt khẩn cấp trong trường hợp nào theo quy định tại Khoản 1Điều 81); biên bản bắt người trong trường hợp khẩn cấp; tin báo, tố giác về tội phạm; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; các tài liệu liên quan làm căn cứ cho việc quyết định bắt khẩn cấp đối với từng trường hợp; tài liệu về nhân thân người bị bắt; lời khai của người bị bắt (nếu có); bản kê tên các tài liệu trong hồ sơ và từng trang tài liệu được đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra.

Trong trường hợp có nghi ngờ về tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ của việc bắt khẩn cấp, hoặc còn thấy băn khoăn trong việc quyết định phê chuẩn như lý do bắt khẩn cấp không rõ ràng, người bị bắt không nhận tội, người bị bắt là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo… thì Viện kiểm sát có thể trực tiếp tiến hành việc hỏi người bị bắt để làm rõ những điểm nghi ngờ và củng cố căn cứ mà Cơ quan điều tra đã dựa vào đó để ra lệnh bắt khẩn cấp, từ đó quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Khi cần gặp hỏi người bị bắt thì Kiểm sát viên phải thông báo trước để Cơ quan điều tra tạo điều kiện cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ hoặc để phối hợp trong quá trình gặp, hỏi người bị bắt. Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do Kiểm sát viên lập phải được chuyển cho Cơ quan điều tra để đưa vào hồ sơ vụ án. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt. Trong mọi trường hợp, thời hạn xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của Viện kiểm sát chỉ trong 12h kể từ khi Viện kiểm sát nhận được hồ sơ đề nghị phê chuẩn. Việc bắt khẩn cấp được tiến hành vào bất kỳ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm.

III. Thực tiễn áp dụng và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS:
Từ những phân tích trên có thể thấy pháp luật hiện hành đã quy định khá đầy đủ và chi tiết về biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên bên cạnh đó, các quy định pháp luật còn bộc lộ tính thiếu thống nhất, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình áp dụng trong thực tiễn.

1. Thực tiễn áp dụng.
Từ khi Bộ luật TTHS đầu tiên ra đời và hiện nay, Bộ luật TTHS 2003 đã phát huy được vai trò to lớn trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Các quy định về bắt người trong Bộ luật TTHS đã tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động này được tiến hành một cách có hiệu quả đồng thời góp phần bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên trải qua gần 10 năm thi hành, một số quy định của Bộ luật TTHS 2003 về bắt người đã bộc lộ những hạn chế bất cập nhất định, cũng như thực tế áp dụng cũng phát sinh một số vấn đề cần phải sớm khắc phục, hoàn thiện. Cụ thể bao gồm một số vấn đề sau:

- Vẫn còn xảy ra tình trạng bắt người trái pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thẩm quyền, thủ tục mà Bộ luật TTHS đã quy định: Việc bắt người, tạm giam, tạm giữ oan sai chưa phải là hiện tượng phổ biến tuy nhiên nhưng đã xảy ra tại nhiều địa phương, gây nên sự bất bình trong nhân dân, có trường hợp cơ quan cấp dưới giữ người nhưng không báo cáo cơ quan có thẩm quyền, xử lý vụ việc tùy tiện, xâm hại nghiêm trọng đến quyền tự do, quyền được bảo hộ về danh dự, nhân phẩm của con người. Ví dụ, một vụ việc vừa qua vào ngày 21/8/2011 công an Quận Hoàn Kiếm đã tiến hành bắt giữ gần 50 người biểu tình chống Trung Quốc ngày 21/8/2011, đặc biệt đối với 6 người bị bắt giữ trong 5 ngày, công an Quận Hoàn Kiếm đã vi phạm hàng loạt điều khoản của Luật Tố tụng hình sự như: điều 79, 83, 84, 85, 86, cụ thể, các trình tự, thủ tục khi tạm giữ như: không có cơ sở để bắt giữ, không có lệnh bắt, không có biên bản giữa người bị tạm giữ với cơ quan tạm giữ, không thông báo cho người thân của người bị tạm giữ, việc bắt giữ không có người chứng kiến, không giao quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ.... Sau đó 25/8/2011 Viện trưởng VKSND quận Hoàn Kiếm ký quyết định hủy bỏ việc tạm giữ đối với gần 50 người trên. Số lượng những trường hợp bị bắt oan sai ngày càng có xu hướng tăng lên: “Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong năm 2008 toàn quốc có 17.791 người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp; viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là 93 trường hợp. Trong năm 2009 toàn quốc có 16.347 người; viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là 44 trường hợp. Đặc biệt trong năm 2009 vẫn còn 405 trường hợp bắt khẩn cấp phải trả tự do. Những trường hợp viện kiểm sát không phê chuẩn đều đã được trả tự do[footnoteRef:7]. [7: Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Thị Minh Sơn, Bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tạp chí luật học số 03/2011.]

- Một số quy định của Luật TTHS về bắt người trong trường hợp khẩn cấp còn chưa hoàn thiện. Đối với việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quy định tại Điều 81 BLTTHS về các trường hợp bắt cơ bản là phù hợp với thực tiễn, nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn xảy ra oan hoặc sai nên vẫn còn những trường hợp VKS không phê chuẩn. Một trong những nguyên nhân xảy ra bắt oan hoặc sai là do không hiểu đúng đắn về quy định của pháp luật và vận dụng không đúng luật. Chẳng hạn, không hiểu đúng như thế nào là hành vi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, không đảm bảo đầy đủ các điều kiện bắt trong từng trường hợp quy định tại Điều 81 BLTTHS đã ra lệnh bắt. Cụ thể:

Thứ nhất, pháp luật hiện hành không quy định “căn cứ” (điểm a khoản 1 Điều 81) để xác định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cụ thể là những căn cứ nào? Việc xác định tội phạm mà người đó đang chuẩn bị thực hiện có phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng hay không để có căn cứ bắt khẩn cấp là một việc rất khó khăn. Trong Bộ luật hình sự có những tội luôn là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, khi có căn cứ cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội này thì việc xác định đó có phải là tội rất nghiêm trọng hay không để quyết định áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp là một điều đơn giản (Ví dụ: Tội giết người quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự). Nhưng đối với những tội phạm mà cấu thành cơ bản của tội đó là tội nghiêm trọng, còn cấu thành tăng nặng của tội đó lại là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và một trong các tình tiết định khung tăng nặng này là căn cứ vào hậu quả do hành vi phạm tội gây ra thì khi quá trình thực hiện tội phạm mới ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, chưa gây ra hậu quả và người chưa thực hiện tội phạm chưa thực hiện các hành vi được quy định ở tình tiết định khung tăng nặng thì không thể xác định được người đó đang chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để tiến hành bắt khẩn cấp đối với họ. Do vậy việc không thống nhất trong việc giải thích và áp dụng trong thực tế là không tránh khỏi.

Thứ hai, bắt khẩn cấp trong trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 81 sử dụng thuật ngữ “người bị hại” là chưa đúng về hình thức vì chỉ khi vụ án đã được khởi tố, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận thì họ mới trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự.

Thứ ba, quy định về trường hợp bắt khẩn cấp ở điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS và khoản 2 Điều 303 BLTTHS là không thống nhất nhau đồng thời không thể hiện được chính sách nhân đạo của Nhà nước. Cụ thể, căn cứ áp dụng bắt khẩn cấp ở điểm a khoản 1 Điều 81 chỉ đặt ra đối với người đã thành niên khi họ chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng còn trong khoản 2 Điều 303 không chỉ áp dụng cho người chưa thành niên (từ 16 đến 18 tuổi) chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mà ngay cả người đó chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng do cố ý cũng đã bị bắt khẩn cấp. Trong khi đó Điều 17 BLHS quy định chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ tư, khoản 2 Điều 81 BLTTHS quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, trong đó có người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Khoản 3 Điều 81 BLTTHS quy định về nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 BLTTHS, nhưng ở trên tàu bay, tàu biển thì không thể có đủ thành phần chứng kiến như khoản 2 Điều 80 BLTTHS quy định. Khoản 4 Điều 81 BLTTHS quy định thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là VKS cùng cấp, nhưng đối với lệnh bắt khẩn cấp của người chỉ huy tàu bay, tàu biển thì VKS cùng cấp là VKS nào cũng không được quy định rõ trong luật.

2. Phương hướng và các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp trên thực tiễn.
- Cần sớm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS quy định về bắt người. Từ những tồn tại đã phân tích trong phần thực trạng áp dụng, em xin đề xuất một số ý kiến sau:

Thứ nhất, đối với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 81, pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể về những “căn cứ” để xác định người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định một người đang chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội đủ căn cứ bắt khẩn cấp. Theo quan điểm của em, có thể hướng dẫn cụ thể căn cứ do cơ quan có thẩm quyền trực tiếp xác minh thông qua theo dõi đối tượng và các biện pháp nghiệp vụ, qua kiểm tra xác minh các nguồn tin do quần chúng cung cấp…

Thứ hai, điều luật nên sửa đổi thuật ngữ “người bị thiệt hại do tội phạm gây ra” thay từ “người bị hại” trong trường hợp bắt khẩn cấp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 81.

Thứ ba, về quy định bắt khẩn cấp đối với người chưa thành niên: cần sửa đổi điều luật theo hướng quy định áp dụng việc bắt khẩn cấp đối với người chưa thành niên khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để phù hợp với quy định tại Điều 81 BLTTHS và Điều 17 BLHS. Bổ sung vào Điều 303 BLTTHS một khoản (khoản 1) với nội dung sau: “Việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên chỉ được áp dụng như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”.

Thứ tư, đối với bắt người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại Điều 81 Bộ luật TTHS phải chú ý đến một số nội dung nhằm đảm bảo tính khả thi khi áp dụng trên thực tế, cụ thể như sau: Tại điểm c khoản 2 Điều 81 quy định Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay bến cảng có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp. Quy định này là cần thiết và phù hợp với yêu cầu của bắt khẩn cấp. Tuy nhiên việc bắt người trong trường hợp này phải tuân theo thủ tục được quy định tại khoản 3 Điều 81: Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ luật này. Khoản 2 Điều 80 quy định việc bắt người phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc bị bắt và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Như vậy đối với trường hợp bắt khẩn cấp trên tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay bến cảng sẽ không đáp ứng được điều kiện về người chứng kiến khi bắt người. Do vậy trong trường hợp nay về thủ tục bắt người là sai quy định của pháp luật. Đồng thời việc phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của Viện kiểm sát sau khi bắt trong trường hợp này sẽ là Viện kiểm sát nơi nào? Do đó Bộ luật TTHS cần quy định rõ hơn về trường hợp người chỉ huy tàu bay, tàu biển ra lệnh bắt khẩn cấp như sau: Khoản 3 Điều 81 cần sửa thành: “Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ luật này. Trường hợp thi hành lệnh bắt của người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay bến cảng thì cần 2 hành khách đi cùng hoặc nhân viên trên chuyến tàu bay, tàu biển đó chứng kiến việc bắt. Khoản 4 Điều 81 Bộ luật TTHS cần bổ sung thêm: Lệnh bắt khẩn cấp của người chỉ huy tàu bay, tàu biển do Viện kiểm sát nơi tàu bay, tàu biển đó hạ cánh, cập bến phê chuẩn.

- Cần chú trọng công tác đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ không chỉ với những người tiến hành tố tụng mà một số cán bộ công chức cấp xã cũng cần phải được đào tạo và nâng cao nghiệp vụ, đặc biệt là lực lượng công an xã. Việc đào tạo về chuyên môn ở đây không chỉ chú trọng đến những quy định của Bộ luật TTHS mà còn phải chú trọng đến những quy định của Bộ luật Hình sự. Việc đào tạo chuyên môn cho cán bộ công chức cấp xã có ý nghĩa rất quan trọng trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS nói chung và chế định bắt người nói riêng. Một người không được đào tạo về chuyên môn thì khó có thể xác định được đâu là hành vi chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng, hay đặc biệt nghiêm trọng để có thể xác định căn cứ bắt khẩn cấp.

- Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với những người tiến hành tố tụng cố ý làm trái các quy định của Bộ luật TTHS về bắt người. Việc bắt người là biện pháp ngăn chặn có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt. Việc bắt người không đúng quy định của pháp luật sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của nhà nước và của các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, làm cơ sở cho các thế lực thù địch chống phá nhà nước, nói xấu chế độ. Ví dụ như vụ bắt người biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc ngày 21/08/2011 vi phạm hàng loạt các quy định của luật TTHS đã tạo cơ sở cho các trang web, các báo phản động có cơ sở phê phán và bôi nhọ nhà nước ta. Do đó việc bắt người cần phải được quyết định kĩ càng. Đồng thời, đối với những hành vi bắt người có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì cần phải chấn chỉnh kịp thời, những hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì Viện kiểm sát, Thủ trưởng cơ quan điều tra cần phải nâng cao vai trò và trách nhiệm của mình để mọi hành vi vi phạm pháp luật về bắt người đều phải được xử lý.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trên đây là những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp khẩn cấp và việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này. Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã khắc phục được một số khó khăn, vướng mắc do quy định trước đây của Bộ luật tố tụng hình sự 1988 nhưng trên thực tế cũng đã có những vấn đề mới nảy sinh. Vì vậy, việc liên tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật để luôn đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn là việc làm hết sức cần thiết.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2006.

2. Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Lao động xã hội.

3. Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam, Vũ Gia Lâm, Luận văn thạc sĩ luật học, năm 2000.

4. Một số vấn đề hoàn thiện biện pháp ngăn chặn bắt người trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, TS. Trần Quang Thông, ThS. Trần Thảo.

5. Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sĩ, Nguyễn Văn Điệp, năm 2005.

6. Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, PGS.TS. Nguyễn Đức Thuận, Tạp chí luật học, số 7/2008.

7. Nguyễn Hồng Ly, Biện pháp ngăn chặn bắt người và thực tiễn áp dụng của cơ quan cảnh sát điều tra, viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, năm 2011.

8. Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Thị Minh Sơn, Bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tạp chí luật học, số 03/2011.

No comments:

Post a Comment