30/01/2015
Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong tố tụng hình sự
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động tố tụng hình sự. Hiện nay, vấn đề này tuy đã được nghiên cứu ở những giác độ khác nhau nhưng có ít công trình nghiên cứu chuyên sâu. ở một số trường luật hay khoa luật, vấn đề này chưa được biên soạn hoặc biên soạn sơ sài trong giáo trình luật TTHS. Điều này làm ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên về vị trí, vai trò của nguyên tắc này trong TTHS. Vì vậy, trong nội dung bài này, nhóm sẽ tìm hiểu nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I.Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong Tố tụng hình sự.

1.Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một nguyên tắc trong Tố tụng hình sự.

1. Khái niệm.

Theo từ điển Tiếng việt, nguyên tắc với nghĩa chung nhất được hiểu là “điều cơ bản định ra nhất thiết phải tuân theo trong một loại việc làm”. Như vậy, nguyên tắc được coi là cái không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tế của con người nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đúng hướng và hiệu quả.

Tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo những quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Do vậy, hoạt động của các cơ quan này trong đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân theo ‘điều cơ bản đã được định ra” là tất yếu. Đó là những nguyên tắc tố tụng hình sự.

Nguyên tắc bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật quy định và bảo vệ. Công dân không thể bị bắt nếu không có quyết định của toà án hoặc quyết định phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội bị bắt quả tang; việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị nghiêm cấm.

2. Sự hình thành của nguyên tắc trong luật tố tụng hình sự.

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân đã được nêu ra trong Tuyên ngôn độc lập Hoa Kì (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp (1789), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Việt Nam. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”. Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước. Bảo đảm quyền con người là vấn đề rất quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ. Bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự… Nhà nước đã chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, coi đó như những chế định quan trọng và là mục tiêu cuối cùng của chế độ ta.

Trên cơ sở Hiến pháp, Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 1993 coi quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một trong những nguyên tắc cơ bản. Các quy định về bắt người, tạm giữ, tạm giam là một trong các quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

2.Nội dung của nguyên tắc.

Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một nguyên tắc rất quan trọng trong tố tụng hình sự .

Quy định tại điều 6 BLTTHS : không ai bị bắt, nếu không có quyết định của tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.

Việc bắt và giam giữ phải theo quy định của bộ luật này.

Như vậy, nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: trong hoạt động tố tụng hình sự, việc bắt và giam giữ chỉ được áp dụng trong trường hợp cần thiết và theo đúng quy định của BLTTHS về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn, đồng thời nghiêm cấm mọi hình vi truy bức và nhục hình đối với người bị bắt.

*Bắt và giam giữ phải đúng quy định của pháp luật, của BLTTHS về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn.

Theo quy định của BLTTHS thì bắt và tạm giam, tạm giữ người là những biện pháp ngăn ngừa do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng đối với bị can,bị cáo và có thể đối với cả người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho công tác điều tra khám phá tội phạm, xét xử và thi hành án hình sự.

Bắt người đã hạn chế quyền tự do cá nhân, đụng chạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, thậm chí cả danh dự, nhân phẩm của công dân.Bởi vậy,nếu bắt người được áp dụng đúng theo quy định của pháp luật thì các quyền và lợi ích của công dân được tôn trọng và bảo đảm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ngược lại nếu bắt người tùy tiện, trái pháp luật thì không những quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của họ bị xâm phạm về thân thể của họ bị xâm phạm mà còn làm giảm hiệu lực của pháp luật, làm mất uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật và niềm tin của của công dân vào công lý.

BLTTHS hiện hành đã quy định những trường hợp bắt người sau đây:

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam(điều 80).

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (điều 81)

Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã(điều 82).

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là trường hợp bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc bị tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam đối với họ nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Điều 80 BLTTHS quy định những người sau đây mới có quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

-Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp.

-Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp.

-Thẩm phán giữ chức vụ chánh án, Phó chánh án Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỗi cao, Hội đồng xét xử.

- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Ngoài chủ thể có thẩm quyền nói trên, thì không có ai có quyền ra lệnh bắt bị can , bị cáo để tạm giam.

Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giữ cũng được quy định chặt chẽ. Lệnh bắt phải phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh bắt; họ tên, địa chỉ của người bị bắt….Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã. Khi tiến hành bắt phải có người chứng kiến.

Việc quy định thẩm quyền và thủ tục bắt người chặt chẽ như trên nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt và người thi hành lệnh bắt, đảm bảo bắt đúng người cần bắt và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt đặc biệt là quyền bất khả xâm phạm của họ.

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quy định tại điều 81 BLTTHS là xuất phát từ yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm của nhà nước nhằm chủ động đấu tranh với tội phạm.

Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp thể hiện tính cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm, song để tránh những sai lầm, vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm của công dân lệnh bắt khẩn cấp quy định tại điều 81 BLTTHS quy định chỉ những người có thẩm quyền nhất định mới có thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp như đã trình bày trong điều 81.

Trong mọi trường hợp bắt người khẩn cấp phải được thông báo với Viện kiểm sát bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt.

Quy định này nhằm đảm bảo việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp của cơ quan điều tra đúng người cần bắt, khắc phục hiện tượng bắt nhầm, bắt oan người vô tội, vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.

Bắt người phạm tội quả tang đang bị truy nã được quy định tại điều 82 BLTTHS. Phạm tội quả tang đang là trường hợp tội phạm đang thực hiện tội phạm sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát giác ngay nếu người chứng kiến có thể xác định rõ ràng là trường hợp phạm tội.

Đang bị truy nã là trường hợp phạm tội kẻ phạm tội đang lẩn trốn nên đã có lệnh truy nã của cơ quan điều tra. Điều 82 BLTTHS quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.

Quy định như vậy, là để kịp thời phát huy tính tích cực của quần chúng trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, kịp thời ngăn ngừa hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tập thể và của công dân. Đồng thời quy định này thể hiện một điều rất quan trọng là sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, phải giải ngay đến cơ điều tra có thẩm quyền giải quyết, không được đánh đập, tra tấn, giam giữ họ vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của công dân.

Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang.

Việc tạm giữ phải có lệnh của những người có thẩm quyền, lệnh tạm giữ phải ghi rõ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lí do bị tạm giữ và ngày hết hạn tạm giữ…để đảm bảo cho công tác giam giữ, kiểm soát giam giữ, tránh vi phạm quyền tự do, bất khả xâm phạm thân thể của công dân.

Tạm giam (điều 88BLTTHS) là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn, nó hạn chế quyền tự do của người bị áp dụng biện pháp này trong một thời hạn dài .

Bộ luật hiện hành quy định điều kiện tạm giam cao hơn, chặt chẽ hơn thể hiện chính sách của nhà nước ta mở rộng, dân chủ, tôn trọng quyền bất khả xâm phạm của công dân.

*Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình.

Truy bức, nhục hình trong tố tụng hình sự là hành vi không những xâm phạm nghiêm trọng đến sinh mạng, tự do thân thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn làm giảm hiệu lực và tính nghiêm minh của pháp luật. Vì vây, bộ luật tố tụng hình sự đã cấm mọi hình thức truy bức , nhục hình.

Hành vi bức cung được hiểu là những thủ đoạn mà người tiến hành tố tụng để buộc tội người bị thẩm vấn.

Nhục hình là phương pháp tra tấn, gây đau đớn về thể xác người bị điều tra, xét hỏi hoặc bị giam giữ, cải tạo.. mà các biện pháp nghiệp vụ nghiêm cấm.

Đê phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, làm oan người vô tội, trong những trường hợp nhất định BLTTHS quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biệm pháp tố tụng có thể áp dụng một số biện pháp cưỡng chế nào đó hạn chế đến quyền và lợi ích của công dân.

3.Ý nghĩa.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng của tố tụng hình sự. Nguyên tắc này cùng các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng hình sự đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong tố tụng hình sự và có những ý nghĩa nhất định trong tố tụng hình sự.

Nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể là cơ sở quan trọng cho việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự, thể hiện tính dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cùng với các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng hình sự góp phần làm cho quá trình tố tụng trong thức tế được vận hành một cách thống nhất, đồng bộ, đạt hiệu quả cao, cơ sở cho việc hoàn thiện, định hướng cho việc xây dựng pháp luật tố tụng hình sự.

II.Thực trạng áp dụng nguyên tắc trong thực tế, nguyên nhân và kiến nghị nâng cao.

1.Thực trạng áp dụng nguyên tắc trong thực tế.

Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành đã đưa hoạt động tố tụng vào đúng quỹ đạo. Các biện pháp ngăn chặn, đặc biệt là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đã được các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện một cách đúng pháp luật và hạn chế một cách đáng kể việc bắt người, tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự nhiều năm qua vẫn còn nhiều sai sót, chưa thực sự đáp ứng được những yêu cầu và nhiệm vụ do Bộ luật Tố tụng hình sự đặt ra. Những sai sót mà các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự thường xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là:

- Bắt, tạm giữ, tạm giam người không thực hiện tội phạm. Ví dụ, trường hợp oan sai của thầy giáo Nguyễn Minh Hoàng ở huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Một lần đi dự tiệc cưới về thầy “chếnh choáng” và bị té ngã bầm tay. Cũng đêm đó xảy ra vụ đánh nhau tại nhà vợ chồng anh Hùng, chị Đôi. Nghe tiếng lộn xộn bà Hum và con trai là anh Đức chạy sang. Một bóng đen dùng gậy phang anh Đức và bà Hum ngất xỉu. Bóng đen cùng đồng bọn bỏ chạy. Anh Hùng bị thương tật 4%, chị Đôi 10%, Bà Hum 10%, anh Đức 8%. Một tuần sau thầy giáo Hoàng được mời lên xã. “Tới nơi thấy có đủ cả công an tỉnh, công an huyện, công an xã chờ sẵn, chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì thầy nghe tiếng hô: Tên giết người, cướp của hạ vũ khí đầu hàng! Thầy choáng váng, đang nghĩ xem vũ khí của mình là gì thì họ thoăn thoắt cởi hết đồ của thầy... rồi thầy bị đưa lên xe chở thẳng về nơi giam giữ... suốt sáu tháng trong phòng giam thầy mới máng máng hiểu mình bị bắt vì có các yếu tố gần giống với những điều mà các nạn nhân kể lại một cách lộn xộn thiếu thống nhất”.

- Lạm dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam,khám xét một cách tràn lan, tùy tiện, ít chú ý xem xét đến tính hợp pháp, sự cần thiết của biện pháp đã áp dụng. Ví dụ, trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch Tuyết và Hắc Thị Bạch Thủy tại tỉnh Bình Thuận. Khi chỉ mới nghi ngờ cô Hắc Thị Bạch Tuyết và em gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng giả mà chủ tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây, được công an thị trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện “giữ” chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày 21/1 đến 2 giờ ngày 22/1/2006, thậm chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám xét. Điều này đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền tự do, quyền được bảo hộ về danh dự, nhân phẩm của con người.

- Bắt người, tạm giữ, tạm giam không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, không có lệnh tạm giữ, tạm giam hoặc tạm giữ, tạm giam quá hạn luật định…ví dụ, tại xã Thanh Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Diễn tiến của vụ việc có thể tóm tắt như sau: ông Chứ có hai con là anh Quý và anh Sửu. Chị Toan là vợ anh Quý bị Nguyễn Tùng Lâm trêu ghẹo và chặn đánh. Ông Chứ cũng bị Lâm hành hung. Khoảng 21h30 Lâm kéo vài chục người đến vây nhà, ném gạch đá, dùng kiếm đâm thủng cửa nhà ông Chứ. Ông Chứ ném gạch xuống không cho Lâm và đồng bọn đến gần, sau đó nhóm của Lâm bỏ chạy. Hôm sau, mẹ và chú của Lâm đến nhà ông Chứ bắt đền vì làm gẫy răng của Lâm (và phải đền mỗi cái đến hai triệu đồng). Vụ việc được đưa đến cơ quan pháp luật. Sáng ngày 25/10/2005 anh Quý đến trụ sở công an huyện Yên Mỹ theo giấy triệu tập và bị bắt giam tại trại tạm giam công an tỉnh Hưng Yên, mãi tới 22 giờ cùng ngày công an huyện mới thông báo cho gia đình bà Vuốt. Trước đó ngày 20/6/2005 anh Sửu (em trai anh Quý) đang lao động tại trại nuôi lợn của nhà thì bị ba cán bộ công an huyện mặc thường phục đến chở thẳng lên công an huyện Yên Mỹ bắt giam.

- Tình trạng truy bức, nhục hình vẫn xảy ra. Gần đây, báo chí đưa tin nhiều vụ mà người bị tạm giữ, tạm giam chết trong phòng tạm giam hoặc chết ngay sau khi được thả. Câu hỏi đặt ra là: tại sao họ lại chết khi mà họ bị cách li với xã hội ? trong khi chỉ có cơ quan điều tra là thường xuyên tiếp xúc. Giải thích được hiện tượng này chỉ có nguyên nhân duy nhất là họ truy bức, nhục hình.

2.Nguyên nhân vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phậm về thân thể của công dân trong tố tụng hình sự.

1, Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa hoàn thiện

Pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội quyết định. Trước những biến đổi to lớn của đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội thì pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa hoàn thiện là điều dễ hiểu bởi đó là quy luật khách quan.

Nghiên cứu nội dung chế định bắt, tạm giữ, tạm giam trong BLTTHS hiện hành, có thể liệt kê một số điểm không phù hợp với thực tiễn dưới đây:

- Thứ nhất, vẫn còn những căn cứ được quy định chung chung, không xác định, làm cho người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật một cách lúng túng và suy đoán chủ quan dẫn đến vi phạm.

- Thứ hai, đối tượng áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang truy nã khác nhau, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cho 2 đối tượng này cũng khá khác nhau. Người bị bắt trong trường hợp bị truy nã đã là bị can, bị cáo hoặc người bị kết án, người bị phạt tù bỏ trốn và bị truy nã. Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Còn người bị truy nã, sau khi bắt cơ quan điều tra có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ.

- Thứ ba, việc quy định người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp ngăn chặn này thiếu chặt chẽ, chưa logic và chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động tố tụng hiện nay nên chưa đề cao trách nhiệm của cá nhân của những người tiến hành tố tụng.

- Thứ tư, thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam, thủ tục bắt người trong những trường hợp khẩn cấp quy định chưa đầy đủ, chưa hợp lí nên dẫn đến tình trạng vi phạm luật hoặc hợp thức hóa thủ tục bắt người trong những trường hợp này, xâm phạm tới quyền tự do thân thể của công dân.

2, hạn chế trong nội bộ các cơ quan tiến hành tố tụng

- Năng lực, trình độ của các cán bộ còn hạn chế: Đội ngũ cán bộ trong cơ quan tiến hành tố tụng chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và trình độ, năng lực, trong đó có một số bộ phận suy giảm, đạo đức đi xuống. Trong hoạt động bắt người, tạm giam, tạm giữ, một số cán bộ nhận thức không đầy đủ về tính chất, vai trò và tầm quan trọng của những hoạt động này do đó vận dụng thiếu chính xác các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục.

- Hiện tượng “quá tải” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Nước ta bước vào hội nhập, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội,... Bên cạnh những điểm tích cực mang lại thì tiêu cực cũng không phải ít. Các tội phạm gia tăng không ngừng. Trong khi đó, cơ quan tiến hành tố tụng phần do hạn chế về số lượng, phần do hạn chế về chất lượng mà không đáp ứng đủ yêu cầu dẫn đến hiện tượng “quá tải” trong tố tụng.

- bên cạnh đó, kinh phí, trang thiết bị còn thiếu thốn cùng với việc chưa xử lí nghiêm những cán bộ làm sai cũng là nguyên nhân gây ra thực trạng trên.

3.Kiến nghị nâng cao.

Từ những phân tích trên, để bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, hoàn thiện một số quy định của Luật Tố tụng Hình sự, Luật cần quy định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt để bắt đúng người phạm tội để tránh oan sai, bên cạnh đó cũng cần tôn trọng và bảo đảm những quyền và lợi ích chính đáng của người bị bắt. Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cũng cần quy định rõ hơn về các điều:

+ Cần sửa đổi bổ sung điều 80 về bắt bị can bị cáo để tạm giam theo hướng quy định cụ thể bị can bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo bắt đúng người đúng đối tượng, tránh tình trạng bắt tràn lan, không cần thiết,bắt để tạm giam nhưng không đủ điều kiện cần thiết để tạm giam.

+ Điều 84 Biên bản về việc bắt người quy định: Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản...Tuy vậy đây mới chỉ là điều kiện cần mà còn thiếu điều kiện đủ; Luật mới chỉ đề ra các quy định nhìn từ góc độ bảo đảm các quyền của Nhà nước mà chưa xem xét từ góc độ bảo đảm quyền của người bị bắt. Do vậy biên bản về việc bắt người cần bổ sung thêm “biên bản cần được lập làm hai bản và người bị bắt phải được giao một bản” để nhằm tránh sự thất lạc, mất mát sai soát, tùy tiện của chủ thể tiến hành tố tụng và thể hiện sự tôn trọng người bị bắt.

+ Khoản 2 Điều 87 quy định về thời hạn tạm giữ: “trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng khĩng qú ba ngđy; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá ba ngày”; Vậy những trường hợp nào được coi là “cần thiết”, trường hợp nào là “đặc biệt” ? Điều này hoàn toàn do chủ thể tiến hành tố tụng nhận định và thực hiện. Do vậy để đảm bảo tính chặt chẽ, đảm bảo được nguyên tắc pháp chế, luật phải quy định cụ thể từng trường hợp; không nên dùng văn bản dưới luật để quy định hoặc hướng dẫn vì dễ tạo ra sự tùy tiện và áp dụng không thống nhất.

......

- Thứ hai, về cơ chế thực hiện Quốc hội cần bám sát thực tiễn cuộc sống, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật để bảo vệ các giá trị nhân văn của con người.

- Thứ ba, đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói riêng, cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật; nắm chắc các quy định của pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam; hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp tạm giữ tạm giam...

- Thứ tư, đối với Viện kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi đã xác định rõ căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng.

- Thứ năm, cần trang bị các trang thiết bị cần thiết cho hoạt động tiến hành tố tụng, đặc biệt là trong công tác điều tra.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Tóm lại, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là vấn đề rất quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ. Việc này được thể hiện bằng việc quy định nguyên tắc trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự,... Qua việc tìm hiểu nội dung của nguyên tắc giúp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn,từ đó tránh được việc áp dụng sai nguyên tắc.

http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?option=com_content&view=article&id=377:bqcntvbtgtg&catid=105:ctc20063&Itemid=109

http//www2.thanhnien.com.vn/phapluat/2006/3/15/142136.tno

 http//www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/index.aspx?ArticleID=27059&chanell 

Theo http//www.vietnamnet.vn/phongsu/2003/12/41100

No comments:

Post a Comment