A. MỞ BÀI
Văn bản pháp luật là sản phẩm quyền lực của các cơ quan nhà nuớc, là phương tiện, công cụ hữu hiệu nhất để nhà nuớc quản lí xã hội. Chất lượng của văn bản pháp luật vừa phản ánh hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nuớc vừa cho thấy mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên cũng như các sản phẩm xã hội khác, văn bản pháp luật cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định và cần phải có biện pháp ngăn chặn. Trong đó có hai biện pháp nổi bật nhất là biện pháp hủy bỏ và biện pháp bãi bỏ. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài số 16 nghiên cứu về “biện pháp hủy bỏ và biện pháp bãi bỏ văn bản pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành, nhận xét và kiến nghị”.
B. THÂN BÀI
I. Khái niệm văn bản pháp luật khiếm khuyết và các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết:
1. Văn bản pháp luật (VBPL):
VBPL là những văn bản được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định, chứa đựng ý chí của nhà nước nhằm đạt được mục tiêu quản lí và được nhà nước đảm bảo thực hiện.
2. VBPL khiếm khuyết:
VBPL khiếm khuyết được hiểu là văn bản pháp luật “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu. (giáo trình XDVBPL- trường Đại học Luật Hà Nội, trang 265).
3. Xử lí VBPL khiếm khuyết:
Xử lí VBPL khiếm khuyết là hoạt động chủa cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp luật khiếm khuyết. Các hình thức xử lí VBPL khiếm khuyết bao gồm: biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành, sửa đổi, bổ sung. (điều 9 luật BHVBQPPL năm 2008). (văn bản quy phạm pháp luật – VBQPPL)
4. Các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Pháp luật tuy không có điều khoản nào quy định trực tiếp các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết, tuy nhiên thông qua quy định tại Điều 27 Nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật và quy định tại điều 9 luật ban hành VBQPPL năm 2008 chúng ta có thể hiểu các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết bao gồm: biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành, sửa đổi, bổ sung.
Biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ là hai hình thức xử lí nghiêm khắc nhất đối với VBPL khiếm khuyết. Bản chất của hai biện pháp này cũng rất khác nhau, tuy nhiên pháp luật lại không có những quy định rõ ràng nhằm phân biệt chúng dẫn đến nhiều tranh cãi về việc áp dụng trong thực tiễn. Do vậy, việc phân tích, tìm hiểu để có những nhận thức chính xác về bản chất của hai biện pháp xử lí nói trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
II. Biện pháp hủy bỏ và biện pháp bãi bỏ:
1. Biện pháp hủy bỏ văn bản pháp luật:
Khái niệm: Hủy bỏ là ra quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp lí kể từ khi văn bản đó đuợc ban hành. (Từ điển pháp luật - Hành chính Pháp_Việt trang 32)
Đối tượng áp dụng: Đây là biện pháp xử lí được áp dụng đối với VBPL bao gồm cả văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Trường hợp áp dụng: Việc hủy bỏ VBPL thường áp dụng trong trường hợp văn bản đó vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: nội dung của VBPL bất hợp pháp; ban hành văn bản trái thẩm quyền nội dung; sai phạm về thủ tục ban hành dẫn đến làm mất cơ sở pháp lí của việc giải quyết công việc phát sinh...
Điều 29 Nghị định 40/2010/ NĐ-CP về kiểm tra và xử lí văn bản quy phạm pháp luật thì: “hình thức hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành”.
Hậu quả pháp lý: văn bản pháp luật bị hủy bỏ sẽ bị hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lí. Như vậy, biện pháp này phủ nhận hoàn toàn giá trị pháp lí của văn bản bị hủy bỏ ở mọi thời điểm mặc dù trên thực tế, trước khi bị hủy nó đã từng có hiệu lực và đã được thi hành. Đối với cơ quan, cá nhân, đối tuợng liên quan đến việc ban hành và thực hiện văn bản pháp luật bị hủy bỏ đó thì phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi ban hành văn bỏ đó. Ngoài ra, đối với văn bản bị hủy bỏ là văn bản áp dụng pháp luật thì phát sinh một hậu quả pháp lí quan trọng đó là trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản. Theo Điều 30 nghị định 40/2010/NĐ-CP thì tùy thuộc vào tính chất, mức độ của VBPL khiếm khuyết mà chủ thể ban hành có thể bị truy cứu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự. Loại trách nhiệm này pháp luật không quy định đối với văn bản bị hủy bỏ là văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính.
Chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ VBPL khiếm khuyết: Theo quy định trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp 1992, các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Nghị định 40/2010/NĐ-CP, nhìn chung thẩm quyền hủy bỏ VBPL khiếm khuyết thuộc về: Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với văn bản của một số cơ quan; Tòa án nhân dân cấp trên đối với văn bản áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân cấp dưới; Tòa hành chính đối với văn bản áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính nhà nuớc trong một số loại việc; cơ quan nhà nước đối với chính VBPL do mình ban hành nếu pháp luật không quy định khác.
2. Biện pháp bãi bỏ văn bản pháp luật:
Khái niệm: Bãi bỏ theo nghĩa thông thường được hiểu là “bỏ đi, không thi hành nữa”(Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB. Giáo dục, Hà Nội 1995, tr. 41). Theo ngôn ngữ khoa học, bãi bỏ VBPL: “là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố một văn bản pháp luật hiện hành hết hiệu lực thi hành” (Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp).
Đối tượng áp dụng: biện pháp bãi bỏ áp dụng đối với các văn bản quy phạm pháp luật có một trong các dấu hiệu khiếm khuyết như: nội dung VBPL không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, đại đa số nội dung trong văn bản không phù hợp với quyền lợi chính đáng của nhân dân; nội dung văn bản không phù hợp với VBPL do cơ quan cấp trên ban hành hay không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội là đối tượng mà văn bản điều chỉnh, không còn cần thiết tồn tại trong thực tiễn nữa...
Hậu quả pháp lý: VBPL bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử lí nó có hiệu lực pháp luật. Tức là, pháp luật vẫn công nhận giá trị pháp lí của văn bản bị bãi bỏ từ thời điểm ban hành cho đến thời điểm bị tuyên bố bãi bỏ. Vậy nên, những chủ thể, đối tượng liên quan đến việc ban hành và triển khai thực hiện văn bản đó đều được coi là hợp pháp. Do đó, biện pháp bãi bỏ không phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết đó.
Chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ VBPL khiếm khuyết: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cơ quan nhà nước đối với VBPL khiếm khuyết do chính mình ban hành. Các loại văn bản của các cơ quan nhà nước cụ thể là đối tượng bị bãi bỏ của các chủ thể nêu trên được trình bày cụ thể trong các văn bản pháp luật đã kể ở mục trên.
3. Phân biệt biện pháp hủy bỏ và biện pháp bãi bỏ văn bản pháp luật khiếm khuyết:
Nhìn chung theo các quy định của pháp luật tại luật ban hành VBQPPL năm 2008 và nghị định 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lí VBQPPL thì thẩm quyền và thủ tục xử lí của hai hình thức bãi bỏ, hủy bỏ VBPL không có sự phân biệt. Tuy nhiên giữa hai hình thức này có những điểm khác biệt cơ bản sau:
* Đối tượng áp dụng:
- Hủy bỏ VBPL khiếm khuyết: Áp dụng đối với cả văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính khiếm khuyết
- Bãi bỏ VBPL khiếm khuyết: Chỉ áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết.
* Trường hợp áp dụng:
- Hủy bỏ VBPL khiếm khuyết: Đối với những VBPL có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng
- Bãi bỏ VBPL khiếm khuyết: Chỉ đối với những VBPL có dấu hiệu vi phạm pháp luật mà còn đối với cả những VBPL có dấu hiệu không phù hợp với kinh tế, xã hội...
* Thời điểm VBPL bị xử lý hết thời hiệu lực:
- Hủy bỏ VBPL khiếm khuyết: Kể từ thời điểm VB đó được quy định là có hiệu lực pháp luật.
- Bãi bỏ VBPL khiếm khuyết: Kể từ thời điểm văn bản xử lý văn bản đó có hiệu lực (thời điểm văn bản bị xử lý được tuyên bố là bãi bỏ).
* Hậu quả pháp lý:
- Hủy bỏ VBPL khiếm khuyết: Khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi ban hành văn bản bị hủy bỏ đó. Việc hủy bỏ văn bản áp dụng pháp luật phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản. Nếu văn bản bị hủy bỏ là văn bản áp dụng pháp luật thì pháp luật còn quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản. Còn đối với văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính thì pháp luật không quy định việc bồi thường.
- Bãi bỏ VBPL khiếm khuyết: Những việc trước đó đã áp dụng theo văn bản này được giữ nguyên. Bãi bỏ VBPL không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản đó.
III. Một số tồn tại trong quy định của pháp luật về biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ VBPL khiếm khuyết và kiến nghị:
Một trong số những nguyên nhân cơ bản tạo ra tính tùy nghi trong việc áp dụng các biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ VBPL khiếm khuyết trong thực tế là do quy định của pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, chưa tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc cho việc nhận thức và vận dụng vấn đề này, thể hiện ở một số mặt sau:
- Pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL chỉ phát sinh khi áp dụng biện pháp hủy bỏ văn bản áp dụng pháp luật khiếm khuyến mà không áp dụng đối với việc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật sai trái. Điều này đã tạo nên một điểm bất hợp lí trong pháp luật, đó là: cùng là những văn bản pháp luật sai trái, gây ra những thiệt hại cho xã hội nhưng trường hợp thì phải bồi thường, trường hợp thì không. Tuy nhiên, nếu quy định trách nhiệm bồi thường đối với cả việc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật thì lại làm phát sinh nhiều vấn đề mới như khó khăn trong việc xác định thiệt hại của các loại văn bản này vì sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật vào thực tiễn là rất rộng, lại trải qua thời gian tồn tại lâu dài, vì thế khó quy ra mức độ thiệt hại cụ thể để áp dụng trách nhiệm. Như vậy, để đảm bảo tính khoa học, hợp lí, phương án tốt nhất là chỉ nên quy định áp dụng biện pháp hủy bỏ đối với riêng văn bản áp dụng pháp luật mà thôi.
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Nghị định 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lí văn bản quy phạm pháp luật chỉ quy định chung chung về trường hợp áp dụng và chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ, dẫn đến các cơ quan nhà nước khi xử lí văn bản pháp luật cũng tùy nghi lựa chọn một trong hai biện pháp, thậm chí sử dụng không nhất quán, bởi vì không thể phân biệt rõ ràng dựa trên những tiêu chí trên. Do vậy, pháp luật cần thiết phải có những quy định cụ thể hơn về đối tượng, trường hợp áp dụng, hậu quả pháp lí của hai biện pháp này.
- Pháp luật quy định văn bản quy phạm pháp luật là đối tượng áp dụng của cả biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ VBPL khiếm khuyết. Tuy nhiên do hậu quả pháp lí của hai biện pháp này hoàn toàn khác nhau, ngoài ra, các quy định của pháp luật nhằm phân biệt chúng chưa rõ ràng nên dễ dẫn đến sự bất công khi có sự nhầm lẫn trong việc áp dụng biện pháp xử lí. Cụ thể, đối với việc hủy bỏ, thì những chủ thể và đối tượng liên quan đến việc ban hành và thực hiện văn bản đó bị coi là bất hợp pháp, bị truy cứu trách nhiệm. Ngược lại đối với việc áp dụng biện pháp bãi bỏ thì các chủ thể và đối tượng liên quan đến văn bản đó đều được coi là hợp pháp. Vì vậy, phương án hợp lý nhất là quy định biện pháp bãi bỏ được áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật mà thôi.
C.KẾT BÀI
Việc hoàn thiện hai biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ góp phần rất lớn vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng các biện pháp xử lí đó trong thực tiễn. Do đó góp phần hạn chế tính trạng áp dụng thiếu thống nhất, gây tranh cãi trong thực tế.
Bài tập học kỳ của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các cô trong tổ bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, trường Đại học Luật Hà Nội ,Nxb.CAND, Hà Nội - 2011.
2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008.
3. Lê Đức Khiêm “Văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết – thực trạng và cách thức xử lý”, Khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Luật Hà Nội, 2009.
4. Trần Danh Phú “Hoạt động kiểm tra, tự xử lí văn bản quy phạm pháp luật của chủ thể ban hành văn bản – Thực trạng và giải pháp”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, 2010.
5. Từ điển Luật học, Nxb Tư Pháp, Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý.
6.Từ điển pháp luật - Hành chính Pháp_Việt
7. Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB. Giáo dục, Hà Nội 1995.
8. Tạp chí Luật học, số 5/1998; số 8/2008.
9. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2008.
No comments:
Post a Comment